Saturday, August 2, 2025

Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường và Nha Kỹ Thuật / Bài Viết của Trung Tá Phan Trọng Sinh

Phạm Hòa và Tr/Tá Phan Trọng Sinh SLL/NKT

 Trước đây khoảng hơn một năm, khi anh Nguyễn Mạnh Tường -Đại tá NM Tường-  từ San Diego tới trú ở Moss Beach,CA-  tôi có đến thăm anh vài lần. Nhắc lại hồi 2005 tôi đến đón anh ở San Diego đi dự buổi họp của chiến hữu NKT ở Orange County, anh Tường có nói chừng nào có tổ chức họp mặt ở San Jose, chúng mình sẽ tới gặp lại anh em cũ. Năm nay 2011 có Tiểu Hội NKT ở San Jose nhưng anh Tường lại không thể đến!

Tôi xin được kể đôi chút về Nguyễn Mạnh Tường. Đã có những bài báo nói về Mãnh sư Nguyễn Mạnh Tường thời gian anh phục vụ tại Phú Yên, nhưng chưa có ai biết anh đã làm những gì cho SLL nói riêng và cho NKT nói chung. Tôi xin được bổ túc phần nào về thời gian Tường ở SLL và NKT.
......
Sau Cách Mạng 1963, Đại Tá Hồ Tiêu về làm CHT Sở Liên Lạc, lúc đầu Đại Tá mang về SLL một số sĩ quan nhảy dù trong đó có tôi, các Đại úy Nguyễn Viết Cần, Nguyễn Thế Phồn, Nguyễn Văn Thanh, các Trung úy Trần Lưu Huân, Trần Thụy Ly, các Thiếu úy Văn Thạch Bích, Lê Minh, Nguyễn Văn Thụ, Nguyễn Hải Triều, Vương Vĩnh Phát, Phan Nhật Văn, Nguyễn Văn Am...vv...Từ các đơn vị không phải nhảy dù có Trung Tá Ngô Văn Hùng CHP, Đại úy Hào, Đại úy Trung, Trung úy Lê Quang Tiềm, Thiếu úy Nguyễn Cẩm, Thiếu úy Bùi Minh...vv.  
Khởi đầu Đại Tá Hồ Tiêu đã chịu nhiều áp lực để tiếp tục công tác mật vụ của Sở Nam. Đại Tá HT có Trung Tá Ngô Văn Hùng làm CHP lo việc cải tổ để có thể tiếp nối sứ mệnh của Sở Nam. Ngoài Trung Tá Hùng còn có các Sĩ quan từng quen việc Phòng Nhì và An Ninh như Đại úy PhồnĐại Úy Hào, Đại Trung, Thiếu úy Triều, Thiếu úy Bùi Minh....
Tháng 1-1964 tôi mới về trình diện SLL và gặp Tường là TP3 của Sở, tôi làm Phụ Tá TP2 cho Nguyễn Viết Cần. Trong thời gian này, tôi được chỉ thị hợp tác với TP3 Nguyễn Mạnh Tường để hoàn tất kế hoạch hành quân Hạ Lào. Anh Cần rời SLL khoảng tháng 2 hay 3-1964 và tôi thay anh ấy ở chức vụ TP2.
Sau khi tôi nhận chức vụ TP2/SLL từ Đại úy Cần, một hôm mở kho lưu trữ những tài liệu của Sở Nam tập trung về BCH/SLL, tôi đã thấy những hồ sơ của các chính khách VN mà tên tuổi đã được nhắc tới trên báo chí như Nguyễn Tường Tam,  Trần Quốc Bửu, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Hương...vv.., gần như  hầu hết các chính khách tên tuổi vào thời ấy đều có một hồ sơ cá nhân rất chi tiết. Điều bất ngờ là có cả hồ sơ về Nguyễn Mạnh Tường và Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu! Tôi có kể chuyện này cho Tường. Chúng tôi trao đổi ý kiến và đều đồng ý không muốn SLL theo đường lối cũ của ĐT Lê Quang Tung.
Tôi trình sự việc lên ĐT HT và được chỉ thị lựa một số hồ sơ để Đại Tá coi. Một tuần sau, tôi được gọi lên văn phòng CHT, buổi họp có mặt Đại Tá CHT, CHP Ngô Văn Hùng và tôi. Trung Tá Hùng đựợc hỏi ý kiến trước về kho tài liệu của Sở Nam. Trung Tá Hùng rất phấn khởi cho rằng số tài liệu trên giúp ích rất nhiều trong việc cải tổ để tiếp tục trách nhiệm của Sở Nam. Được hỏi ý kiến, tôi trình rằng tôi chỉ được huấn luyện và có chút kinh nghiệm về Tình Báo Chiến Trường, tôi hoàn toàn không có kinh nghiệm gì về công tác Mật Vụ -nôm na là theo dõi, bắt bớ, thẩm vấn khai thác phạm nhân. Nếu quyết định của CHT theo đường hướng tái lập Sở Nam thì tôi xin được thay thế bằng ĐU Hào hay ĐU Trung là những người có nhiều kinh nghiệm hơn.
Buổi họp kết thúc không biết quyết định của ĐT HT ra sao. Nhưng chỉ vài ngày sau ĐT HT chỉ thị tôi tự tay thiêu hủy tất cả các hồ sơ đó và chú trọng phát triển kế hoạch hành quân thu thập tin tức vùng Hạ Lào.
Xin thú thật, khi đưa ý kiến chống lại ý kiến của CHP NV Hùng, ngoài lý do như đã nêu trên là không có kinh nghiệm tổ chức mật vụ, tôi cũng có ý riêng không thích công tác đó vì nó từng liên quan đến Nguyễn Mạnh Tường và anh ruột tôi là Phan Trọng Chinh. Gia đình tôi ai cũng qúy mến Nguyễn Mạnh Tường, Mẹ tôi còn qúy Tường hơn tôi, Cụ thường nói 2 thằng cùng tuổi, cùng lùn lùn giống nhau, thấy đứa nọ lại nhớ đứa kia.  
  
Vào thời gian này các cơ quan tình báo của VNCH và đồng minh đều xác nhận Đoàn 559 của CSBV bắt đầu hoạt động ở Hạ Lào. Nhu cầu tình báo đặt ra là phải thu thập tin tức về hoạt động của Đoàn này. LLĐB VN với các cố vấn Mỹ đã thực hiện một cuộc hành quân thả dù đêm nhiều toán Delta xuống vùng Tchépone, Hạ Lào. Tôi và Nguyễn Mạnh Tường ra Nha Trang để theo dõi và nghiên cứu cuộc hành quân. Cuộc hành quân hoàn toàn thất bại vì nhiều lý do. Toán không được thả đúng DZ, bị thương vong vì tai nạn, thất lạc không tập hợp được. Mười  phần chỉ có 1,2 phần tìm về được tới đồn biên phòng, đa số mất tích và bị bắt. Một biệt đội 3 chiếc trực thăng khả dụng nhưng chỉ ứng chiến, và dùng chuyên chở các sĩ quan từ Nha Trang tới các đồn biên phòng.
Trong phiếu trình CHT SLL do anh Tường thảo và rồi được trình lên Đại Tướng TTMT Cao Văn Viên, anh đề nghị dùng các đồn biên phòng làm căn cứ xuất phát, anh đề nghị dùng trực thăng xâm nhập và triệt thoái,  anh đề nghị KQVN thành lập và tăng phái 1 Biệt Đoàn Trực Thăng cho SLL, hình thức cũng giống như BĐ300 hay BĐ83 do Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy vào thời kỳ Combined Studies của CIA yểm trợ các cuộc hành quân ngoài Bắc. Anh Tường cũng đề nghị -vì nhu cầu tình báo cấp tốc do P2/SLL nêu ra, anh đề nghị tổ chức một đơn vị gồm nhiều toán biệt kích, phải xin chuyển ngay một số toán Bắc Bình đang ở Long Thành sang kế hoạch hành quân Hạ Lào...vv.
Xin nói thêm là lúc này SLL và Sở Kỹ Thuật -tiền thân của NKT- là 2 đơn vị riêng biệt. Trước tháng 11-1963 cả 2 Sở đều dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Quang Tung. Sở LL, trước Cách Mạnh 1963 còn gọi Sở Nam hay nôm na là Mật Vụ, Sở Kỹ Thuật hay là Sở Bắc là hậu thân của 6è Bureau và 6è Bureau là tập hợp của các toán nhỏ Affairs Tonkinois của 2è Bureau. Khi người Pháp kiểm soát được một phần Thượng du Bắc Việt, các toán nhỏ Affair Tonkinois được giải tán và nhân viên gom lại thành 6è Bureau chuyên về các cuộc hành quân sau hậu tuyến địch. Sau 1954, 6è Bureau chuyển sang QĐQGVN và là Phòng 6/BộTTM, Trưởng Phòng là Đại Tá Lung. Qua vài lần cải tổ và đổi tên P6 trở thành Sở Kỹ Thuật/Bộ TTM, cơ quan yểm trợ chuyển từ Combined Studies của CIA sang cho MACSOG. MACSOG được thành lập để phụ trách các cuộc hành quân biệt kích Miền Bắc tiếp tục công tác của Combined Studies. CHT Sở Kỹ Thuật từ Đại Tá Lung, chuyển sang  Đại Tá Lê Quang Tung, rồi Đại Tá Trần Văn Hổ làm Giám Đốc khi SLL nhập vào SKT để thành một Nha, vị Giám Đốc sau cùng là Đại Tá Đoàn Văn Nu.
Nói tới danh xưng của NKT, thì có câu chuyện hiểu lầm tức cười là nhiều người nghĩ rằng Sở KT và sau này là Nha KT thuộc Phòng 7 BTTM. Phòng 7 BTTM được thành lập trong thời gian Việt Nam Hóa Chiến Tranh, chuyên về tác chiến điện tử, kiểm thính mọi hoạt động liên lạc vô tuyến của Địch và là 1 trong số nhiều nguồn cung cấp tin tức tình báo để dùng trong các kế hoạch đặc biệt của PTB/NKT. Một vài bài viết của ai đó tự nhận là nhân viên NKT cũng đã ngộ nhận như vậy !
Để được MACV ủng hộ đề nghị hành quân Hạ Lào, Tường và tôi đã phải họp nhiều lần với Đại Tá Koszebew, sĩ quan liên lạc của MACV có văn phòng ngay trong BCH/SLL. Đại Tá Koszebew gần như hoàn tòan đồng ý với chúng tôi về kế hoạch hành quân. Nhờ ông mà chúng tôi được giới thiệu với một số cơ quan TB Hoa Kỳ, và có những buổi họp với MACV rồi MACSOG, trình bày đề nghị của SLL về nhu cầu thả biệt kích dọc Trường Sơn, chúng tôi đã gặp một số ý kiến chống đối của MACSOG vốn chỉ thiên về hành quân thả dù và Biệt Hải và có thành kiến về khả năng của KQVN có thể cung cấp hữu hiệu cho những cuộc hành quân xâm nhập và triệt thoái bằng trực thăng H34. Trong các buổi họp đó, Nguyễn Mạnh Tường đã tỏ ra xuất chúng khi đối phương vừa nêu ra một trở ngại, là anh đã có sẵn một giải pháp soạn ra đúng thủ tục tham mưu. Xin nói thêm là anh Tường đã tham dự nhiều khóa huấn luyện của QLVNCH và Hoa Kỳ. Khóa nào anh cũng là Thủ Khoa với số điểm cách xa người thứ nhì, dù có học chung với sĩ quan Mỹ.
Kết quả là MACSOG hài lòng với kế hoạch của Tường, SLL có ngay 10 toán biệt kích chuyển từ các toán Bắc Bình ở Long Thành, có ngay 6 trực thăng H34 khả dụng do KQVN với số phi hành đoàn cần thiết mà chính anh Tường kín đáo lặng lẽ sưu tra lý lịch, thành tích trong số người do KQVN đề nghị...và đó là bước đầu của việc thành lập và tăng phái PĐ219, PĐ114 cho NKT sau này.
Kế hoạch của anh Tường được MACSOG sửa đổi đôi chút, và họ thành lập OP35 để cùng SLL thực hiện các cuộc hành quân. Sở LL nay trở thành một đơn vị của Sở KT nay là NKT, đối nhiệm của MACSOG. (Trước khi thành lập OP35, MACSOG chỉ có OP31 đến OP34, các hoạt động tạm kể là Biệt Hải, Biệt Kích Bắc, và Tâm Lý Chiến).  
Nhưng một chuyện bất ngờ xảy ra, anh Tường được lệnh chuyển sang BTL/CSQG. Từ đó trách nhiệm cả P2 và P3/SLL do tôi kiêm nhiệm. Khi kế hoạch hành quân được Pentagon bật đèn xanh, tôi được lệnh ra Đà Nẵng thiết lập BCH/HQ Lôi Hổ bên cạnh tổ chức của đối nhiệm là C&C,Da Nang (Command & Control) trực thuộc OP35 ở Saigon. Vào lúc này danh từ Chiến Đoàn chưa được BTTM và MACV chấp thuận vì anh Tường dùng danh từ Task Force để dịch chữ Chiến Đoàn. Phía đối nhiệm nại cớ Task Force là danh từ chỉ một tập hợp đơn vị gồm nhiều binh chủng để thi hành một nhiệm vụ đặc biệt và tạm thời. Với tôi, tôi nói "I don't care" tên gọi là cái gì, tôi cần bảng cấp số được chấp thuận để tôi có phương tiện thi hành nhiệm vụ giao phó.
Trong gần 2 năm cái BCH do tôi thành lập ở Da Nang không có tên chính thức, chỉ gọi là Lôi Hổ, với Mỹ thì là C&C VN,Danang với code name là Kayak, đối nhiệm của tôi Trung Tá Raymond C.Call là Cherokee. Phải chờ cho đến khi BCS được chấp thuận mới được gọi là Chiến Đoàn. Lúc này doanh trại ở Non Nước cũng đã sẵn sàng đón các Toán ở Long Thành ra trú đóng thường trực. Bảng cấp số của PD219 cũng được chấp thuận và các trực thăng chuyển từ Nha Trang ra Da Nang.  
Trước khi danh xưng Chiến Đoàn được chấp thuận, khởi sự tôi có 6 toán với 6 phi hành đoàn do Trung úy sau là Đại úy Hồ Bảo Định chỉ huy, rồi tăng dần lên 25, 30 Toán với 25 trực thăng. Lúc đầu xuất phát xâm nhập từ hầu hết các căn cứ biên phòng từ Khe Sanh xuống tới Dak Pek, DakSut, Đức Cơ. Các Toán trú ở Long Thành, được C130 Black Bird đưa từ Long Thành ra Da Nang, hay Phú Bài, Kontum rồi chuyển sang trực thăng H34 đưa đến các FOB  để được thuyết trình HQ và sau đó lên đường xâm nhập. Từ cuối 1965 tới 1967, thời gian tôi chỉ huy Lôi Hổ ở Da Nang, báo chí không biết gì về các cuộc oanh tạc của B52 trên đường mòn HCM do Lôi Hổ yêu cầu. Và có lẽ đó là các hoạt động duy nhất của B52 trong chiến tranh VN vào thời gian 1965-1967.
Tôi xin kể chút kỷ niệm với các anh em của 6 phi hành đoàn trực thăng khi vừa từ Nha Trang ra trình diện tôi ở phi trường Da Nang. Trung úy Hồ Bảo Định, sau khi giới thiệu từng người của biệt đội, nói nhỏ với tôi một nhân viên vừa mới kết hôn thì được lệnh cấp tốc ra Da Nang, anh ta có mang theo tân nương trên trực thăng của Biệt Đội. Biệt đội xâm nhập ngay trong ngày, lẽ ra tôi theo trực thăng đi FOB Khâm Đức ngay, nhưng tôi ở lại Da Nang để thương thuyết nốt vụ thuê nhà cho phi hành đoàn. Tôi đã giúp đối nhiệm thuê được 3 villas ở Da Nang, 1 cái dành cho SQ, HSQ Mỹ, 1 cái dành cho tôi và Trung Tá Call và cũng là nơi vãng lai cho cấp Tá. Cái thứ 3 dành cho phi hành đoàn trực thăng, chật chội ngay cả với các anh em độc thân. Nghĩ tới người anh em vừa kết hôn, ngay trong ngày tôi kiếm thêm được một căn nhà có 6,7 phòng nhỏ vừa cho từng cặp vợ chồng. Một anh Đại úy Mỹ phải lo sửa chữa và cung cấp mọi tiện nghi căn nhà mới thuê ngay lập tức. Sau khi lo xong vụ nhà cửa tôi mới vào Khâm Đức bằng L19. Đến chiều khi các trực thăng ở Khâm Đức trở về Da Nang tất cả nh ân viên phi hành đoàn đều có một chỗ nghỉ tiện nghi. Riêng tân lang được gửi tặng thêm 1 phong bì.  
Trong mùa mưa 1966, các đồn biên phòng như Ashao, A Lưới, Tà Bạt lần lượt phải dẹp vì áp lực địch và vì không thể yểm trợ hữu hiệu trong mùa mưa. C&C Da Nang chỉ còn duy trì được 2 FOB là Khâm Đức và Kontum. Khi Bảng cấp số được chấp thuận, danh xưng Chiến Đoàn được chấp nhận, FOB Kontum vẫn còn thuộc Chiến Đoàn 1 ở Đa Nang, và do ĐU N.V Thanh chỉ huy, sau được ĐU Hồ Châu Tuấn thay thế, rồi Nguyễn Hương Rĩnh, tiếp theo là Văn Thạch Bích. Khi Lôi Hổ có đủ số Toán để thành lập 2 CĐ thì FOB Kontum thành BCH/CD2 tách ra khỏi CĐ1 ở Danang và tôi không còn phải phụ trách các cuộc hành quân trong khu vực 3 biên giới nữa. Tới đây các phần chính kế hoạch của anh Tường đã được thực hiện, tuy có khá nhiều thay đổi để đáp ứng với tình thế lúc đó, nhưng tựu trung các điểm chính đều đã được anh Tường đề nghị.  
Đầu năm 1967, tôi đang ở Da Nang rất bận rộn vừa lo hành quân, vừa lo doanh trại mới bên Sơn Trà để đón các Toán từ Long Thành ra, thì được chỉ thị bàn giao gấp cho Trung Tá Nguyễn Tuấn Minh để về trình diện CHT SLL.
Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây - Trước khi tôi về SLL vào năm 1964, -để thi hành một mật ước với hữu phái Lào- SLL đã gửi một phái đoàn do ĐU Hào, Trung Úy Rĩnh, Thiếu Úy Phát, Trung úy Tiềm, Thiếu úy Am sang Hạ Lào, và có cơ sở bên cạnh các Phân khu của QĐHGL như ở Savannakhet, Saravane, Attopeu và Pakse, các Toán báo cáo trực tiếp về P2/SLL. Theo kế hoạch của Tr.Tá Hùng CHP/SLL đề nghị thì sẽ phát triển sâu vào vùng địch và lên Thượng Lào.
Rời CĐ1, tôi về Saigon và nhận chỉ thị phải sang Lào chấn chỉnh lại Phái Đoàn của Sở ở đó mà trước đây là một bộ phận của P2/SLL lúc tôi là Trưởng Phòng. Nhân viên phái đoàn đã hủ hóa, người có vợ bé, người  gây xích mích với sĩ quan Lào, người bị nhóm buôn lậu mua chuộc, và nhất là không phát triển sâu vào vùng địch, mà chỉ báo cáo các hoạt động của Bạn là QDHG Lào cùng một vài cuộc thẩm vấn tù binh VC hay Pathet Lào bị QDHG Lào bắt được, và cũng không bành trướng lên phía Bắc khỏi Thakhek là địa điểm đối diện với Đèo Mụ Già cửa ngõ xâm nhập của Địch.
Tôi sang Lào thực hiện được kế hoạch của Trung Tá Hùng là có thêm được một Toán ở Luang Prabang, ở Vientian, ở Vang Vieng nơi đặt BCH của Tướng Vang Pao, và Thakhek. Nhưng rồi các Toán ở Thượng Lào này, kể cả ở Thakhek cũng phải rút trở xuống Hạ Lào vì các hoạt động của Sở trùng hợp với các Toán của Trung Tá Thoại thuộc TƯTB và của Trung Tá Dung của NKT. Khi soạn thảo kế hoạch, Trung Tá Hùng đã không được biết gì về các hoạt động của TƯTB và NKT ở Thượng Lào.
Sau hơn 2 năm ở Lào, hết nhiệm kỳ tôi trở về BCH/SLL thay thế cho Thiếu Tá Nguyễn Hữu Trang làm TMT Sở. Anh Trang sang Lào thế vào chỗ tôi. Tôi ở Saigon không lâu, rồi lên Ban Me Thuot làm CĐP/CĐ3 cho anh Thiếu Tá Tùy CĐT mới từ LLDB sang, nhưng lại đang chuẩn bị rời chức vụ này. Anh Tùy từ BB sang LLDB, bị vất vả vì phải đổi đi đồn biên phòng. Anh được về SLL nhưng lại phải lên cao nguyên và nắm chức vụ CĐT một CĐ mới lập mà thành phần Toán đa số là Mike Force người Miên và Nùng chuyển qua. Anh Tùy hoàn toàn xa lạ với phương thức Targetting đặc biệt của Lôi Hổ, anh không họp tham mưu hỗn hợp, anh không muốn đi cùng trực thăng với đối nhiệm trong các cuộc xâm nhập, anh tính chuyện bỏ SLL. Vì vậy mà tôi phải lên BMT vào lúc địch toan tính dứt điểm các đồn từ Ban Đong xuống tới Kiến Đức.
Ngày nào CĐ3 cũng có ít nhất 2, 3 toán hoạt động dưới đất. Hàng ngày trực thăng bay ra vào vùng hành quân như đi chợ. Số tôi chỉ huy mát tay, nên chỉ mất có 1 Toán Trưởng (CU Phan Nhật Văn) và 1 Toán Phó lúc còn ở Da Nang. Và phải nói là nhờ tài nghệ tuyệt diệu của các Pilot PĐ219, xâm nhập cũng như triệt thoái bất kể giờ giấc đều bay sát ngọn cây, khiến địch không trở tay để sử dụng SA7 và luôn đến đúng LZ thả cũng như đón Toán.
Lần theo Toán xâm nhập chót của tôi, khi trở về nghe trên máy có May Day của một trực thăng bạn trúng SA7 trên không phận Đức Lập. Về tới BCH/CĐ3 được biết đó là trực thăng của LLDB Mỹ, chở CHT Toán B của Mỹ và vị đối nhiệm phía VN  từ Nha Trang bay lên quan sát trận đánh đang tiếp diễn ở căn cứ LLDB Đức Lập. Vì bay cao nên đã lãnh SA7.
Thật hú vía, tôi đã bay trên trực thăng PĐ219, chứ nếu bay trên trực thăng Mỹ thì đâu còn có mặt ở đây. Các vị sĩ quan Việt Mỹ đó có ghé BMT và gặp đối nhiệm của tôi ở BCH/CĐ3. Ông Trung Tá đối nhiệm của tôi cũng mừng hú vía khi từ chối bay cùng các ông bạn từ Nha Trang lên. Thật ra thì công việc của chúng tôi ở CĐ3 lúc đó là làm sao không cho địch tập trung tung ra thêm đơn vị để dứt điểm Đức Lập và Ban Dong. Các Toán của CĐ3 đang cố gắng phát giác mọi di chuyển và tập trung của địch trên đất Miên, BCH/CĐ3 sẽ xin B52 đánh vào những khu vực tập trung quân của địch. Sau này đọc những hồi ký của các Tướng Lãnh địch mới biết là chiến dịch của chúng thất bại vì bị tổn thất nặng do B52. Đó là nhờ các thành quả của các toán CĐ3 và PĐ219 mà Đức Lập qua được trận công kích năm đó.  
Nhiều anh em biệt kích SLL, SCT còn sống sót tới nay có thể đã nhờ các Pilot 219 không ngại hiểm nguy, lăn vào vùng lửa đạn để mang các anh về. Chúng ta phải nhớ cái ơn vô cùng to lớn này.
Sau khi địch thất bại trong chiến dịch dứt điểm ở khu vực từ Ban Dong xuống đến Kiến Đức, tôi được lệnh về BCH/NKT thay thế cho Trung Tá Đỗ Văn Tiên ở chức vụ TP Tình Báo NKT. Anh Tiên bị MACSOG đề nghị thay thế vì gia đình có người dính líu đến VC. Thời gian tôi ở với CĐ3 như vậy chỉ có vài tháng và không ngày nào không có hành quân.
Lúc này Nguyễn Mạnh Tường đã rời CSQG và đang là TP Hành Quân NKT. Chúng tôi như đôi đũa lại có dịp cùng làm việc, ưu tiên thượng cấp giao cho anh Tường lúc này là tái tổ chức NKT, thành lập Sở Công Tác, với sự tách rời vài bộ phận của Sở Tâm Lý Chiến, anh phải viết lại BCS mới của Nha. Thay mặt cho NKT hay đúng hơn là thay mặt cho Trung Tá Nguyễn Minh Tiến CSV/Sở HQTB -Tường phải tham dự tất cả các buổi họp với TTM, với MACV, MACSOG.  Anh Tường bị áp lực từ tứ phía, từ nội bộ Nha phải tranh đấu với TTM và MACV được thêm quân số, cấp bậc tương ứng của các cấp từ Toán viên đến Giám Đốc Nha. Tuy tôi có tham dự một vài buổi họp như vậy cùng với Tường, nhưng rồi nhức đầu quá lấy lý do tôi đang có những cuộc hành quân tình báo đặc biệt, tôi để Tường  lãnh trọn.
Sau lễ Giáng Sinh 1970 Tường đưọc thuyên chuyển ra Phú Yên, cuộc đời anh lại một lần nữa sang trang. Lần này anh nổi tiếng đã giữ vững vùng trách nhiệm không để lọt vào tay địch, nhưng vì trách nhiệm với nước, với dân, với quân đội anh đã không thể trọn tình với gia đình. Cuộc đời anh cô độc từ đây cho đến ngày anh được các chiến hữu tiễn đưa lần chót.
Gần đây có vụ đột kích bắt Bin Laden, tôi xin kể lại một vụ đột kích khác của Mỹ trong đó nhiều nhân viên Mỹ của OP35 hay của C&C Da Nang tham gia.
Khoảng đầu năm 1967, có tin tức mơ hồ về 1 trại giam tù binh Mỹ gần Hanoi. Tôi cùng Đại tá Simons, boss của OP35 và Trung tá Call đối nhiệm của tôi đã cùng bay sang Nakhon Phanom và Udorn Thái Lan.  Nakhon Phanom là nơi người Mỹ thiết lập Trung Tâm Tác Chiến Điện Tử, còn căn cứ không quân Udorn là nơi có một số phi cơ không thám SR111 và SR71 chuyên bay thám thính chụp ảnh Bắc Việt. Sau chuyến bay này Đại tá Simons mang về một số t ài liệu không ảnh và dụng cụ điện tử. Trung tá Call nói riêng cho tôi biết có thể C&C Danang phải cung cấp vài toán cho một cuộc hành quân giải cứu tù binh.
Mãi tới 1970 tôi mới được biết rằng Pentagon đã không dùng toán VN mà dùng toàn biệt kích Mỹ, trong đó đa số là sĩ quan và HSQ của C&C Danang. Cuộc hành quân đột kích này chỉ huy bởi Đại Tá Simons đặt ở Monkey Montain hay còn gọi là Đài Radar Panama ở Sơn Trà. Dick Meadow -người chỉ huy toán biệt kích nhảy xuống trại giam là một HSQ lúc mới tới trình diện C&C Danang năm 1965. Vào lúc anh chỉ huy toán biệt kích nhảy xuống Sơn Tay anh mang cấp bậc Đại Úy. Cuối năm 1970, sau vụ đột kích, Đại tá Nu và tôi có gặp Dick Meadow ở Fort Benning. Trung tá Call đối nhiệm của tôi về hưu năm 1970 và qua đời ở Florida năm 1976. Đại tá Simons là một huyền thoại của LLDB Hoa Kỳ và là một anh Mỹ khó tính, độc đoán, lên cấp từ HSQ, lập được nhiều chiến công trong WW2.  Ông này và Đại tá Hồ Tiêu ít khi giao thiệp trực tiếp với nhau. Sau thất bại ở Sơn Tây, Đại Tá Simons còn tổ chức vụ đột kích thất bại khác vào Iran và đã làm Tổng thống Carter mất điểm trong vụ tái cử. Simons về hưu và hết là một huyền thoại của Quân Đội Mỹ.
Lắm lúc tôi tự hỏi, nếu Nguyễn Mạnh Tường thiết kế cuộc HQ Sơn Tây này, và được thực hiện sớm hơn 1,2 năm thì kết qủa sẽ ra sao. Tôi đã có ý nghĩ như vậy vì cuộc triệt thoái khỏi An Lộc của BĐQ do anh thiết kế và thực hiện là một cuộc HQ tuyệt vời đáng để học hỏi mãi mãi về sau. Lực lượng của ta ra khỏi An Lộc là một hoàn toàn  bất ngờ của địch. Chỉ có 2 khẩu 155 ly và đạn dược không thể mang ra được là phải phá hủy tại chỗ. 

Để chấm dứt câu chuyện tâm tình với anh em về một chiến hữu thân thương của chúng ta, tôi xin các anh em hãy nhớ lại Nguyễn Mạnh Tường, người đã khai sinh ra các cuộc hành quân vượt biên của Lôi Hổ mà tôi đã hân hạnh là người đầu tiên hướng dẫn anh em thực hiện kế hoạch của anh. Hy vọng câu chuyện cũng giúp các bạn biết thêm phần nào về huyền thoại NKT, SLL, Sở Công Tác và PĐ219. Chuyện của những anh hùng quân đội lặng lẽ góp phần vào cuộc chiến tranh trong bóng tối.
Phan Trọng Sinh
2011    

KHỞI THỦY 1945-1963 PHẦN II. ĐƯỜNG DÂY HÀ NỘI

        Toán biệt kích Hoa Kỳ huấn luyện như toán Castor là một quan niệm liên tục về các hoạt động bí mật của người Hoa Kỳ tại Việt Nam khởi nguồn gần hai mươi năm qua. Hoạt động lớn đầu tiên của Hoa Kỳ ẩy ra trong mùa xuân năm 1945 dưới quyền chỉ huy của L. A. Patti, chỉ huy trưởng các hoạt động phiá bắc vùng Đông Dương, Phòng Dịch Vụ Chiến Lược (OSS), tiền thân của cơ quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA), bộ chỉ huy ở Kunming (Côn Minh) miền nam nước Tầu (Trung Cộng). Đối với Patti, ông ta đã đến khu vực (bắc Đông Dương) trong năm 1943, khi bộ chỉ huy Phòng Dịch Vụ Chiến Lược (OSS) nằm trong thủ đô Washington DC. Đạo quân lớn trong vùng Đông Dương lúc đó là Cộng Sản hay tên gọi khác là Việt Minh.
        Sự kiện Việt Minh là nhóm lớn mạnh nhất trong vùng Đông Dương không quan trọng bằng bề ngoài của họ, như một tổ chức có tinh thần quốc gia làm cho người Hoa Kỳ tin tưởng và yểm trợ. Hơn nữa, Phòng Dịch Vụ Chiến Lược (OSS) trong trận Đệ Nhị Thế Chiến, nỗ lực hợp tác với nhiều lực lượng quốc gia mà quân Cộng Sản lớn mạnh nhất. Như Patti đã nhận thấy, ông ta phác họa ra chuyện dàn xếp ở Việt Nam trong năm 1945. Do đó, Việt Minh học hỏi được, người Hoa Kỳ điều hành các hoạt động tình báo bí mật trong vùng Đông Nam Á châu như thế nào, không phải đánh cắp tài liệu mà là các điệp viên OSS đã huấn luyện họ.

        Những cố gắng đầu tiên, Patti gặp gỡ bên Tầu với lãnh tụ Việt Minh, Hồ Chí Minh. Ông Hồ cùng với đàn em, trong hồ sơ Patti ghi nhận là những người cộng tác với Hoa Kỳ. Tháng Bẩy năm đó, Thiếu Tá Alison R. Thomas chỉ huy toán OSS Deer nhẩy dù xuống miền Bắc, điạ điểm không xa Tuyên Quang, nơi ông ta gặp Hồ Chí Minh. Cùng đi vói Thomas có hai Trung Sĩ người Hoa Kỳ, một sĩ quan người Pháp và hai người Việt Nam.
       Nhiệm vụ dành cho toán quân nhỏ OSS (Deer) trong vùng Đông Dương rất to lớn, bao gồm đầy đủ tin tức tình báo chiến thuật, chiến lược. trong vùng Đôngf Dương như: tịch thâu tài liệu của quân đội Nhật, tâm lý chiến, quấy phá các đơn vị Nhật Bản, giải cứu phi hành đoàn, cùng tù binh Hoa Kỳ. Tin tức về những tội ác quân đội Nhật phạm phải. Trong những nhiệm vụ đầu tiên, ông Hồ tham dự, ra lệnh cho Việt Minh hợp tác trong việc lấy tin tức các đơn vị quân đội Nhật Bản trong vùng Đông Dương và chuyển cho cơ quan OSS ở bên Tầu. Đến mùa hè, các huấn luyện viên của Patti giúp đỡ đơn vị tuyên truyền, sơ sinh của Tướng Giáp tổ chức hai đơn vị võ trang của Việt Minh cho các hoạt động đặc biệt.
        Sau khi đến Kunming (Côn Minh), Patti kết luận có hai đảng phái chính trị lớn Việt Nam (lúc đó chưa phân chia nam, bắc) là Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng đều không thể tin tưởng được. Đại Việt trước đó là một phần của Việt Nam Quốc Dân Đảng thân người Nhật, đã thỏa thuận với quân đội Nhật trong vấn đề tình báo trước khi Patti đến Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam Quốc Dân Đảng ngả theo phe Trung Hoa Quốc Gia với lãnh tụ Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek). Nhiều người trong nhóm VNQDĐ cung cấp tin tức cho cả hai người Pháp và Tầu. Điều này chính sách Hoa Kỳ không thể chấp nhận được, do đó cơ quan OSS không bắt tay với họ.
        Kunming là nơi nhiều nhân viên OSS được thuyên chuyên đến sau khi quân đội Quốc Xã Đức sắp đầu hàng bên Âu châu. Cuối tháng Tám năm 1945, Patti đến phi trường Gia Lâm ở Hà Nội để săp xếp cho việc đầu hàng của quân đội Nhật. Lucien Conein một sĩ quan Lục Quân Hoa Kỳ, gốc người Pháp vừa mới thuyên chuyển đến văn phòng OSS ở Kunming cũng đến Hà Nội sau đó. Đầu tháng Chín nơi công trường Ba Đình trong thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn Độc Lập từ người Pháp và danh xưng cho chính phủ Việt Minh là chính phủ Lâm Thời Dân Chủ Cộng Hòa Việt Nam. Thành phố Saigon, hòn ngọc Viễn Đông được Việt Minh đổi tên thành Thành Phô Hồ Chí Minh. Tên thành phố đó chỉ tạm thời xuất hiện trên giấy tờ.
        Tiếp theo là cái chết của Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt trong mùa thu năm 1945, Hoa Kỳ chấm dứt sự liên hệ với Hồ Chí Minh. Việc liên hệ giữa ông ta với Moscow (Nga Sô) được đưa ra như một bằng chứng ở Washington, về sự liên hệ trong khối Cộng Sản Quốc Tế. Hoa Kỳ bận rộn giúp đỡ các quốc gia bên Âu châu đặc biệt Pháp tái thiết lại đất nước, điều đó làm người Hoa Kỳ phải chấm dứt lời kêu gọi các quốc gia nhược tiểu đứng lên đòi độc lập (chấm dứt chế độ thuộc điạ). Đến cuối tháng Mười, Patti cùng các sĩ quan (nhân viên) OSS khác rời Việt Nam, và những lá thư ông Hồ gửi cho Tổng Thống Truman Hoa Kỳ không được hồi đáp. Qua mùa xuân năm sau, quân đội Pháp đánh chiếm trở lại các thuộc điạ của họ trong vùng Đông Dương.
        Trong năm 1952, người Pháp bị trói chặt trong trận chiến tranh với Việt Minh, khu vực rừng núi, dân cư thưa thớt Bắc Việt đã bị quân du kích Việt Minh đánh chiếm. Đến thời điểm đó, hầu hết những nguời không-cộng sản đã rời bỏ hàng ngũ Việt Minh, một sĩ quan trẻ Hoa Kỳ đến Hà Nội (có lẽ để quan sát tình hình) ghi lại những điều hiểu biết của ông ta trong năm 1952 ở Việt Nam như sau:
        Những điểm chúnh thức từ bộ Ngoại Giao (Hoa Kỳ)… ngả theo hướng người Pháp, yểm trợ người Pháp trong trận chiến Việt Nam. Vị Đại Sứ Hoa Kỳ lúc đó là Donald Heath ngả theo người Pháp. Do đó có sự mâu thuẫn giữa vị Đại Sứ và trưởng phòng Dịch Vụ. Mỗi khi ông ta đi công du hay thăm các quốc gia khác như Lào, Cambodia, trưởng phòng Dịch Vụ “Ed” Gullian gửi đi những công điện trái ngược với vị Đại Sứ. Tại sao ông ta không bị … rắc rối? Bởi vì Gullian được sự hậu thuẫn từ Dean Acheson, Bộ Trưởng Ngoại Giao thứ 51 dưới thời Tổng Thống Harry Truman của Hoa Kỳ.
        Người Pháp biết rõ Việt Minh và chiêu bài mặt trận thống nhất của họ, kêu gọi các đảng phái trong nước kết hợp. Đối với Đại Việt, họ tin rằng người Nhật sẽ trao nền độc lập cho họ sau khi trận Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt. Do đó họ thuộc về nhóm khuynh tả, đảng lớn nhất kể cả Việt Minh vẫn là Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ).
        Cả người Pháp lẫn Việt Minh có chung một mục đích đối với VNQDĐ. Việt Minh rất rõ ràng, loại trừ, thanh toán càng nhiều càng tốt một đảng quốc gia lớn… Người Pháp muốn loại trừ VNQDĐ vì đảng này có tầm vóc chính trị ảnh hưởng các quốc gia tây phương, kể cả Hoa Kỳ, bởi vì họ là những người thực sự ái quốc.
        Sự mâu thuẫn giữa Ed Gullian và vị đại sứ tiếp tục… và người Hoa Kỳ quyết định không can thiệp, nhúng tay vào nội bộ Việt Nam… VNQDĐ mất sự đoàn kết, vẫn còn là một tổ chức nhưng không còn là một nhóm thế lực nữa, và (người Hoa Kỳ) tìm một nhóm mới đó là Công Giáo.
        Người Công Giáo ở Việt Nam rất gắn bó, họ có Linh Mục trong Saigon, Phát Diệm và Bùi Chu. Họ có truyền thống chống Cộng (Việt Minh).
        Câu hỏi về ngành Tình Báo của Việt Minh (Cộng Sản), cựu viên chức Hoa Kỳ trả lời “Tôi tin người Pháp hơn Việt Minh” Ông ta xem chừng không để ý, có ít nhất một sĩ quan tình báo Việt Minh đang để ý hai người Việt Nam ông ta vừa tuyển mộ. Viên sĩ quan tình báo Việt Binh báo cáo về cho viên chức trưởng ngành tình báo Việt Minh trong tỉnh Thi Bình. Điệp viên nằm vùng của Việt Minh đã gài vào nhóm Công Giáo, đã chiếm được sự tin cẩn của hai linh mục ở Buì Chu, Phát Diệm, như một con chiên ngoan đạo. Anh ta sau đó đi theo một vị linh mục di cư vào miền Nam Việt Nam, làm nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tự vệ của nhóm giáo dân dưới sự chỉ đạo của vị linh mục.
        Viên chức Hoa Kỳ được gặp gỡ người Công Giáo tự vệ nơi ngoại ô Hà Nội, anh ta tên là Lê Văn Bưởi, một con chiên ngoan đạo trong lứa tuổi hai mươi sống trong khu vực đông bắc Việt Nam, gia nhập quân đội quốc gia dưới sự lãnh đạo của người Pháp. Sau khi tốt nghiệp khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức, ông ta được đeo lon Thiếu Úy phục vụ trong ngành tình báo dưới quyền Thiếu Tá Biker, chỉ huy trưởng khu vực Quảng Yên, quê quán ông Bưởi. Ông Bưởi kể thời gian này như sau:
        Người Pháp dựa vào sự trung thành của người Công Giáo là tai, mắt của họ trong xã hội người Việt Nam. Khi Điện Biên Phủ thất thủ, tôi là một trong số người được chọn đưa qua Pháp huấn luyện. Mục đích xây dựng một nhóm người Công Giáo trung thành, nằm lại (vùng) nơi miền Bắc, khi người Pháp rút về nước năm 1955. Lý do nào đó, tôi chưa hề được đi qua Pháp.
        Thiếu Úy Bưởi theo đơn vị VNCH rút về miền Nam (dưới vĩ tuyến 17), sau hiệp định Geneva 1954, những người điệp viên ông chưa hề biết, nằm vùng ở lại Quảng Yên và những nơi khác trên khắp miền Bắc Việt Nam.
        Ngưi Pháp đầu hàng trận Điện Biên Phủ, ký kết hiệp định Geneva 1954, chia Việt Nam ra làm hai nơi vĩ tuyến 17. Hai nước Việt Nam, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (DRV-miền Bắc), Việt Nam Cộng Hòa (RV-miền Nam). Lằn ranh hẹp dọc theo vĩ tuyến 17 được gọi là khu phi quân sự (DMZ). Sông Bến Hải chạy từ hướng tây sang đông, tạm thời xem như lằn ranh giới giữa hai miền, sẽ được xóa bỏ khi hai miền tổng tuyển cử trong năm 1956.

        Người mất sĩ diện nhất trong năm 1954 là chủ tịch Hồ Chí Minh, ba mươi năm hy vọng đất nước thống nhất dưới chế độ cộng sản của ông ta bị hiệp định Geneva 1954 … đình lại. Ông Hô phải ký bản hiệp định dưới áp lực của Moscow (Nga), Beijing (Bắc Kinh - Tầu). Một tháng sau khi hiệp định Geneva có hiệu lực, ông Hồ đã nhìn thấy trước, kẻ thù kế tiếp của dân tộc Việt Nam là người Hoa Kỳ. Trong phiên họp cûa đảng Lao Động (cộng sản VN), ông ta vạch ra “Người Hoa Kÿ không chỉ là kẻ thù của nhân loại trên thế giới. Họ đã trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam, Lào và Cambodia.”
        Dưới quyền điều hành của giám đốc cơ quan CIA, Allen Dulles, Đại Tá Không Quân Hoa Kỳ Edward Lansdale sang Việt Nam sau khi hiệp định Geneva được ký kết. Nhiệm vụ cho ông ta, kích động một chương trình các hoạt động bán quân sự nơi miền Bắc Việt Nam, trước khi cộng sản vào chiếm đóng miền Bắc. Sau đó , Lansdale được lệnh giúp đỡ một lãnh tụ người Công Giáo lên làm Tổng Thống trong miền Nam, thay thế Hoàng Đế Bảo Đại.
        Các điệp viên Việt Nam được đưa qua căn cứ huấn luyện của cơ quan CIA trên đảo Saipan. Trong năm 1955, Hải Quân Hoa Kỳ đưa các điệp viên trở lại miền Bắc qua cảng Hải Phòng, họ được lệnh nằm vùng cho đến khi nhận được lệnh (hoạt động, công tác). Vũ khí, máy móc truyền tin liên lạc, và vàng (bất cứ thời gian, không gian nào cũng có giá trị) đã được chôn dấu cẩn thận, bí mật. Theo tinh thần bản hiệp định Geneva, quân cộng sản sẽ vào tiếp thu miền Bắc, các nhà thờ (xóm đạo) nơi miền Bắc ra chỉ thị cho giáo dân di cư vào miền Nam.
        Phạm Xuân Ẩn một thanh niên trẻ bắt liên lạc với Đại Tá Lansdale cùng ban tham mưu của ông ta. Cùng với phái đoàn Lansdale, có nhóm Nhiệm Vụ Quân Sự Saigon (SMM), lo chuyện đưa điệp viên đã được huấn luyện ở Saipan xâm nhập vào miền Bắc Việt Nam, do Thiếu Tá Lục Quân Lucien Conein (gốc người Pháp, dính líu cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963) đảm trách. Đại Tá Langsdale vẫn chưa biết Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên cộng sản, đang tìm cách theo dõi các hoạt động của ông ta. Lucien Conein kể lại hoạt động “nằm vùng” theo sự hiểu biết của ông ta:
        Tôi nhớ có khoảng hai mươi điệp viên nằm vùng ngoài miền Bắc Việt Nam. Chúng tôi đưa họ sang Philippines huấn luyện. Đa số theo đảng Đại Việt, vài người là VNQDĐ. Huấn luyện xong, chúng tôi đưa họ qua Okinawa, để cơ quan CIA sắp xếp đưa họ xâm nhập trở lại miền Bắc Việt Nam bằng đường biển, lý do chúng tôi không có phương tiện đưa họ xâm nhập thẳng từ Philippines. Những gì tôi làm cho Đại Tá Langsdale ở Philippines hoàn toàn khác biệt với cơ quan CIA trên đảo Saipan…
        Để yểm trợ các điệp viên khi họ trở về (miền Bắc), tôi làm những kho bí mật chứa vàng (đổi lấy tiền, chế độ nào cũng tiêu thụ), máy truyền tin liên lạc, vũ khí và những đồ dùng khác. Các điệp viên sẽ được phân tán đi khắp nơi, nhiệm vụ cho họ… nằm chờ đến khi có lệnh khác. Tôi không nhớ rõ, có điệp viên nào, huấn luyện ở Philippines được triệu tập (thâu hồi) về miền Nam trong năm 1956 để biết, cơ quan tình báo Bắc Việt đã bắt được ai chưa, rồi ép buộc người điệp viên chơi trò “hai mang”
        Tôi tiếp tục đưa điệp viên ra miền Bắc cho đến năm 1956. Họ được “phóng ra” từ Huế… và rất ít người quay trở về.
        Vài điệp viên gửi công điện từ miền Bắc, nhưng rồi sau đó, bỗng dưng biệt tăm, biến mất không còn liên lạc nữa. Đó là năm 1956, rõ ràng các điệp viên nằm vùng đã bị địch bắt, nhưng tôi tôi không nghĩ ra ai là người… khai báo (phản bội).
        Bây giờ tôi biết được, ngành an ninh Bắc Việt đã và đang theo dõi các chuyến bay (phi vụ) từ Saigon ra Hà Nội, nhưng điều đó vẫn không giải thích chuyện gì đã xẩy ra ngoài Bắc (các điệp viên nằm vùng sau năm 1954 bị bắt). Cũng không chỉ đường cho cơ quan phản gián Bắc Việt tìm ra các kho dự trữ bí mật. Phải có điều gì hơn nữa… phải có người nằm trong tổ chức của chúng ta, mới có thể “hốt trọn ổ” đường dây gián điệp nhanh chóng trong một vố lớn.
        Gilbert Layton, một trong những chuyên gia bán quân sự của CIA nhìn lại giai đoạn này như sau:
        Khi tôi đến Saigon đầu năm 1960, từ một nhiệm vụ bên Âu châu, tôi được “thừa kế” một hoặc hai tủ hồ sơ mật chứa nhiều tài liệu từ thời Langsdale, rất nhiều báo cáo từ năm 1955 về số vàng nhân viên của ông ta dấu nơi miền Bắc Việt Nam, dự trữ cho các điệp viên nằm vùng nơi miền Bắc. Tôi không nhớ có ai thay cho Lansdale trước khi tôi đến. Các bản báo cáo cho biết nhân viên của Langsdale chôn dấu rất nhiều vàng, nhiều chỗ dưới nền nhà, đổ ciment lên che phủ. Có người (nhân viên cao cấp) trong bộ chỉ huy muốn chúng tôi, cho một toán xâm nhập miền Bắc, thâu hồi số vàng đó. Như trong trí nhớ, tôi ước lượng số vàng trị giá khoảng 3/4 triệu đô la (750.000).
        Các điệp viên nằm vùng của chúng tôi (CIA) được huấn luyện trên đảo Saipan, trong căn ứ mà chúng tôi huấn luyện điệp viên Trung Hoa (Tầu) để cho xâm nhập trở lại Tầu. Người điệp viên Việt Nam cuối cùng trên đảo Saipan trở lại miền Bắc mở một cơ xưởng làm pháo. thuốc súng nổ tung, giết chết anh ta… không còn tin tức gì thêm.
        Người Việt Nam ngày nay công nhận, Tổng Thống Diệm thành công lúc đầu trong việc chống cộng, truy lùng các điệp viên cộng sản gài lại trong miền Nam. Xứ Ủy Nam Bộ (Cục R-Trung Ương Cục Miền Nam) phải di chuyển ra khỏi miền Nam Việt Nam trong năm 1956, qua Phnom Penh (Nam Vang) Cambodia.
        Người Hoa Kỳ ủng hộ Tổng Thống Diệm đòi hỏi sự hiểu biết rõ ràng về sự đe dọa của cộng sản mà ông Diệm phải đối phó. Điều này cần thời gian và tin tức tình báo chính xác để soạn thảo kế hoạch, chương trình yểm trợ cho miền Nam Việt Nam, bao gồm luôn vấn đề quân sự.
        Tin tức tình báo về các thành phần chống đối ông Diệm nằm bên ngoài dinh Độc Lập, nằm trong tay Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, một y sĩ trong thành phố Huế, dựa vào thành phần Công Giáo trung thành với ông Diệm. Mạng lưới tình báo bí mật của ông Diệm bao gồm các hoạt động bí mật, cũng cung cấp tin tức tình báo cho bác sĩ Tuyến, được biết dưới danh xưng Sở Liên Lạc, do Đại Tá Lê Quang Tung chỉ huy, làm việc trực tiếp với Tổng Thống Diệm.

        Người em út của ông Diệm, Ngô Đình Cẩn cũng có một ban tình báo riêng hoạt động ở Huế. Ông ta cố vấn cho Tổng Thống Diệm ngoài miền trung miền Nam Việt Nam. Một người em trai khác là ông Ngô Đình Nhu làm cố vấn chính thức cho Tổng Thống Diệm, Bác Sĩ Trần Quang Tuyến báo cáo cho Tổng Thống Diệm qua ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Trùm cơ quan CIA trong Saigon William Colby ghi lại như sau:
        Ngô Đình Cẩn điều hành ban tình báo riêng của ông ta ở Huế. Trong giang sơn của ông Cẩn, bạn muốn làm chuyện gì phải có sự chấp thuận của ông ta, phần còn lại trong miền Nam Việt Nam phải qua tay ông Nhu. Đối với cơ quan CIA, hệ thống chỉ huy VNCH qua bác sĩ Tuyến, sau này là Lê Quang Tung. Chúng tôi (người Hoa Kỳ) có cố vấn, cung cấp sự giúp đỡ, yểm trợ, nhưng họ làm những quyết định căn bản, chúng tôi cố vấn phải làm gì. Đó là một trong những hướng đi của tôi, cứ để họ chỉ huy. Đừng tìm cách lấy đi của họ, sẽ làm họ nổi điên.
        Tôi chưa từng gặp Ngô Đình Cẩn, ông ta không bao giờ tham dự các buổi họp. Trên lý thuyết, tôi làm việc với ông ta từ nhiều năm, và mấy viên chức CIA khác nhưng họ cũng chưa bao giờ gặp ông Cẩn. Tôi nghĩ mình là người duy nhất thích ông Nhu. Đại Tá (Lê Quang) Tung là người hiền lành nhất mà tôi được biết.
        Trong Sở Liên Lạc có Phòng 45, trưởng phòng là Đại Úy Ngô Thế Linh, một sĩ quan Lục Quân có bí danh là Bình (ông Bình). Đại Úy Linh chịu trách nhiệm các hoạt động bí mật chống miền Bắc trong hai quốc gia láng giềng Lào và Cambodia. Khi nào họ cần điệp viên, bắt liên lạc với linh mục Công Giáo có uy tín, tìm người có khả năng, tin cẩn giới thiệu với người của bác sĩ Tuyến. Về quân đội, quân nhân tuyển mộ do Đại Tá Tung và nguời em Đại úy Lê Quang Triệu, trưởng phòng Nhân Viên Sở Liên Lạc lựa chọn tuyển mộ.
        Trong năm 1956, Sở Liên Lạc cần mấy thuyền gỗ (ngụy trang như thuyền đánh cá miền Bắc) để đưa điệp viên, đồ tiếp liệu xâm nhập miền Bắc Việt Nam. Đến cuối năm, một nhóm sáu người trẻ Việt Nam có gốc rễ quê quán ở Quảng Bình, hướng bắc vĩ tuyến 17 được tuyển mộ cho đơn vị Biệt Hải mới thành lập, sau này trở thành Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Đơn vị Biệt Hải nằm trong các hoạt động bí mật dưới quyền Đại Úy Ngô Thế Linh nơi hướng bắc (Phòng 45). Biệt Hải thường đi những chuyến một, hai ngày xâm nhập hải phận Bắc Việt.
        Cơ quan CIA và Ngũ Giác Đài (Bộ Quốc Phòng, Bộ TTM Quân Đội Hoa Kỳ) yểm trợ cho các hoạt động của Sở Liên Lạc vào miền Bắc Việt Nam qua Liên Đoàn Quan Sát Số 1, một đơn vị quân đội dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Tung. Được thành lập năm 1956 với sự giúp đỡ của cơ quan CIA, nhằm mục đích thành lập một lực lượng nằm vùng trong miền Bắc Việt Nam. Quân biệt kích Liên Đoàn Quan Sát Số 1 xâm nhập hậu phương địch, thâu thập tin tức tình báo theo lệnh của Sở Liên Lạc. Cho đến cuối năm 1958, quân biệt kích vẫn tiếp tục đem vũ khi vào miền Bắc chôn dấu, chuyện nằm vùng vẫn còn trên lý thuyết, giấy tờ thay vì những hoạt động bí mật.
        Một cách thâu thập tin tức tình báo khác là chận bắt, giải mã các công điện truyền tin của Hà Nội, đó là nguồn tin tình báo đáng tin cậy nhất. Tổng hợp tất cả các tin tức tình báo, xác nhận làn sóng truyền tin cộng sản vẫn tiếp tục hoạt động trong miền Nam trục tiếp ra Hà Nội. Điều đó chứng minh, quân cộng sản không hoàn toàn rút hết ra miền Bắc Việt Nam, vẫn còn hoạt động bí mật trong miền Nam. Thí dụ, trong năm 1958, truyền tin liên lạc giữa Hà Nội với hai bộ chỉ huy của họ trong miền Nam, một ở hướng tây Đà Nẵng cho Liên Khu 5 (Nam, Ngải, Bình, Phú - miền trung Nam Việt Nam), bộ chỉ huy thứ hai cho vùng đồng bằng sông Cửu Long, hướng tây Saigon gần biên giới Miên. Trạm viễn thong nơi hướng tây Đà Nẵng lo cho các đơn vị chính quy Bắc Việt xâm nhập vào khu vực (vùng I chiến thuật VNCH).         Đên năm 1958, Lê Duẫn được triệu tập ra Hà Nội, chiếm một vị trí trong Bộ Chính Trị.

II. CHẤM NHỎ
        Trong tháng Tám năm 1958, Tổng Thống Diệm một lần nữa yêu cầu Hoa Kỳ giúp đỡ trong các hoạt động bí mật chống cộng sản Bắc Việt. Các cuộc bàn luận của ông ta với cơ quan CIA ở Saigon xẩy ra nơi Phòng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ trong Saigon, thúc đẩy sự tham gia của chuyên viên tình báo Hoa Kỳ trong các hoạt động hỗn hợp Mỹ-Việt. Chuyện này đưa đến thỏa thuận năm 1958 giữa cơ quan CIA và chính quyền Diệm, thực hiện các hoạt động gián điệp hỗn hợp chống Hà Nội, có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng Giêng năm 1959. Colby kể lại thời gian này:
        Khi tôi đến Việt Nam, chúng ta vẫn còn dư âm của quyết định năm 1956 ủng hộ Tổng Thống Diệm không chấp nhận cuộc tổng tuyển cử (thống nhất hai miền Nam-Bắc), giữ miền Nam là một quốc gia độc lập và có chiều hướng tốt. Viện trợ Hoa Kỳ được “bơm” vào miền Nam. Ông Diệm chế ngự được quân cộng sản (Việt Cộng – VC) trong miền Nam Việt Nam, một số lớn đã tập kết ra miền Bắc huấn luyện, tình hình trong miền Nam lúc bấy giờ rất êm. Bây giờ họ đã xác nhận lý do thành lập Đoàn Vận Tải 559 và đường mòn Hồ Chí Minh. Tên gọi “559” (được thành lập trong tháng 5, 1959). Khi họ (Bắc Việt) quyết định chiếm miền Nam bằng võ lực, du kích Việt Cộng bắt đầu giết vài ông xã trưởng (làm gương), kết hợp (xách dộng dân làng), thiết lập đường dây thông tin liên lạc…
        Trước sự biến động bạo lực trong miền Nam Việt Nam, chính quyền Hoa Kỳ phân hóa giữa bộ Ngoại Giao và phiá quân đội. Chính quyền Hoa Kỳ đưa quân đội sang Việt Nam tham chiến (quân đội) hay giải quyết bằng đường lối chính trị? Sở dĩ có sự phân hóa này vì hai nhóm nhìn vấn đề theo hai hướng khác nhau.
        Quân đội “nhậy cảm” cho rằng, nếu phải đương đầu với một trận chiến, tốt hơn chúng ta nên bắt đầu đưa quân sang tham chiến. Bộ Ngoại Giao quan niệm rằng, bạn (Vit Nam hay một quốc gia nào khác) không thể yêu cầu sự giúp đỡ của một quốc gia khác, khi bạn chưa chứng minh đang tiến đến nền dân chủ… Đó cũng là lằn ranh giới sau này dẫn đến việc đảo chánh Tổng Thống Diệm (độc tài). Theo tôi (Colby) đó là lỗi lầm lớn chúng ta đã làm.
        Tuy nhiên, trong thời gian 1959, chúng ta từ từ định hướng ra hướng đi. Cơ quan CIA bị áp lực phải có khả năng thâu thập tin tức tnh báo về các hoạt động của địch (BV/VC), và chúng ta phải làm việc với ngành Đặc Biệt cùa người Việt.
        Người của ông Diệm trong năm 1959 cố gắng gây xáo trộn nội tình Cambodia, còn chúng ta cố gắng khuyến cáo họ (VNCH) không nên làm chuyện đó.
        Các viên chức của chúng tôi (CIA) gốc quân đội làm việc với người Việt Nam trong các hoạt động bí mật. Một người là Gilbert Layton trưởng ban trông nom vấn đề biên phòng… một người khác là Russell Miller điều khiển các hoạt động ra miền Bắc Việt Nam.
        Một câu hỏi được đặt ra, tại sao chúng ta không làm những điều họ (cộng sản Bắc Việt) đã làm đối với  chúng ta nơi miền Bắc Việt Nam (Mặt Trận Giải Phóng miền Bắc). Với kinh nghiệm từ trận Thế Chiến Thứ Hai, thả dù quân biệt kích cùng với đồ tiếp liệu để họ có thể nằm vùng dài hạn, chúng ta có thể làm điều đó đối với Bắc Việt.
        Và trong năm kế tiếp, chúng tôi đã thành lập một ban gọi lả Tổ Chức Trung Tâm Tình Báo, để gom lại tất cả những tin tức tình báo về một chỗ, dễ xử dụng. Ngoài ra lập ban điều tra cao cấp, huấn luyện viên chức điều khiển (đường dây tình báo, điệp viên, toán biệt kích). Tất cả mọi nỗ lực của chúng tôi (CIA ở Việt Nam) đều không đạt hiệu qủa.
        Chúng tôi bắt đầu huấn luyện phi công VNCH để bay những phi vụ mí mật (ra ngoài Bắc), và Thiếu Tá (thời gian đó) Nguyễn Cao Kỳ là người chỉ huy liên phi đoàn vận tải, bao gồm luôn “đơn vị” đặc biệt. Chúng tôi mướn mấy phi công Đài Loan hãng Hàng Không China (CAL) từ Taipei (Đài Bắc) phụ giúp công việc huấn luyện. Sau đó chúng tôi dựng lên “tấm phông” công ty Vận Tải Hàng Không Việt Nam (VIAT) để che mắt thế gian (cộng sản).
        Sau đó chúng tôi tuyển mộ huấn luyện quân biệt hải, tấn công đổ bộ từ biển vào, phá hoại, lien lạc truyền tin với các nhóm biệt kích nằm vùng từ trước…       
        Tôi quên mất (không rõ), khi chúng tôi thực hiện chuyến (thả quân biệt kích ra ngoài Bắc) đầu tiên khoảng đầu năm 1961. Ông Kỳ nhất định muốn bay chuyến đầu tiên, muốn bay ra miền Bắc ngắm nhìn thủ đô Hà Nội, ông Kỳ nói “Tôi là cấp chỉ huy, tôi sẽ bay chuyến đầu tiên.”
        Liên đoàn Quan Sát số 1 là đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt VNCH và nhiệm vụ dầu tiên trao cho LLĐB của chúng ta (Hoa Kỳ) là huấn luyện họ. Quân LLĐB Hoa Kỳ đến Việt Nam để làm việc huấn luyện, CIA chúng tôi không dính dáng đến chuyện đó… rồi thiết lập sự quan hệ với LLĐB/VNCH.
        Chúng tôi mất một phi cơ trong tháng Bẩy năm 1961, bị bắn rơi. Chúng tôi không thê liên lạc với toán biệt kích và Hà Nội loan tin bắn rơi chiếc phi cơ, bắt sống toán biệt kích cùng phi hành đoàn trên đài phát thanh, trên trường quốc tế. Chúng tôi chối cãi, quân biệt kích đã bỏ lại dấu vết trước khi lên đường, nhưng nếu chiếc phi cơ không phải của chúng ta thì của ai (quốc gia nào)?
        Tôi không nghĩ điều đó quá quan trọng, nhưng chúng ta bị bắt qủa tang chơi trò dò thám, gián điệp mt quốc gia khác. Chuyện này nằm trong chính sách đã được Ủy Ban Hỗn Hợp Đặc Biệt 5412 chấp thuận trong tháng Mười Một năm 1960. Như vậy chúng tôi đã không vị phạm chính sách chính quyền Hoa Kỳ đưa ra.
        Theo Thiếu Tá Lê Văn Bưởi, tại thành phố Huế năm 1969-1961, vài sĩ quan VNCH than phiền cơ quan CIA tìm cách ra khỏi hợp đồng, đòi quyền xử dụng (xem xét) hồ sơ các điệp viên trong tổ chức bác sĩ Trần Kim Tuyến. Ông Bưởi xem chuyện này như một việc kiểm soát thay vì chia xẻ giữa hai cơ quan “Cơ quan CIA muốn nắm quyền điều hành tất cả các điệp viên của chúng ta, mình có giữ lại người nào không? Họ tiếp tục đòi hỏi mình (VNCH) bàn giao cho họ thêm các điệp viên nằm vùng mà người Pháp bàn giao lại. Người Pháp có thực sự trao cho chúng ta tất cả những gì họ đã gài từ trước? Không, chắc chắn không. Nhưng những gì mình có, chúng ta không cần thiết phải chia xẻ.”
        William Colby không ngạc nhiên. Ông ta sửa soạn lên làm nhân vật số 2 trong trụ sỡ cơ quan CIA trong Saigon. Lê Duẫn, Đệ Nhất Bí Thư đảng Lao Động ngoài Hà Nội đang thảo chiến lược cho cấp lãnh đạo chính trị Quân Đội Nhân Dân (chính quy Bắc Việt):
        Chúng ta sẽ không xử dụng chiến tranh để thống nhất đất nước. Nhưng, nếu Hoa Kỳ và chế độ bù nhìn xử dụng chiến tranh, chúng ta sẽ phải xử dụng chiến tranh mà quân thù đã tạo nên, sẽ cung cấp cơ hội hoàn hảo cho chúng ta thống nhất đất nước.
        Lê Duẫn đã đọc diễn văn trước Quân Ủy Trung Ương, ngay sau khi kết thúc phiên họp lần thứ 15 bộ Chính Trị Đảng Lao Động trong tháng Giêng năm đó. Buổi họp được Chủ Tịch Hồ Chí Minh chủ tọa, bao gồm đại diện đảng nơi miền Nam. Trong buổi họp, trùng hợp với năm thứ 5 trong kế hoạch 5 năm của Quân Đội Nhân Dân, đảng (Lao Động - Cộng Sản) kêu gọi giải phóng miền Nam. Bài diễn văn của Lê Duẫn cho rằng cách duy nhất để cho đất nước thống nhất là chiên tranh. Ông ta ám chỉ, lợi đìểm của Hà Nội là miền Bắc không bị mang tiếng là kẻ xâm lược, chống lại ngoại bang.
        Phiên họp tháng Giêng đưa đến quyết định gia tăng các hoạt động của cộng sản trong miền Nam Việt Nam, thúc đẩy cuộc võ trang giải phóng. Trong chiều hướng đó, Chủ Tịch Hồ vạch rõ, sự tranh đấu trong miền Nam, huy động cả nước vào cuộc tranh đấu giữa chủ nghĩa Cộng Sản Quốc Tế và chủ nghĩa Tư Bản. Tháng 5 năm đó (1959), theo lệnh ca bộ Chính Trị, Quân Đội Nhân Dân lập nhóm nghiên cứu đc biệt dưới sự chỉ huy của Võ Bầm. Ông ta có kinh nghiệm trong khu vực rừng núi cao nguyên Việt Nam. Nhiệm vụ cho Võ Bầm, xây dựng con đường yểm trợ tiếp vận cho cuộc chiến tranh sắp xẩy ra trong miền Nam mà sẽ nhờ vào sự tiếp tế, yểm trợ từ miền Bắc. Ngày 19 tháng Năm 1959, Đoàn 559 Vận Tải Quân Đội được thành lập để thi hành quyết định của Bộ Chính Trị Hà Nội. Con đường huyết mạch tiếp vận cho cuộc chiến trong miền Nam Việt Nam sau này có tên là Đường Mòn Hồ Chí Minh.
        Ngày 14 tháng Năm 1959, công điện Morses gửi vào miền Nam cho biết, Đảng đã ra lệnh xúc tiến kế hoạch chiến tranh giải phóng miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1959, đoàn 559 báo cáo đã đưa 542 cán bộ vào miền Nam, trong đó 515 người được trao nhiệm vụ xây dựng các căn cứ chiến lược dọc theo biên giới hướng tây với Lào. Vũ khí, quân dụng được chuyển vận trên con đường mới xây vào tiếp tế cho quân du kích Việt Cộng hoạt động nơi miền trung Nam Việt Nam. Sư đoàn 338, một trong hai sư đoàn “tập kết” ra ngoài Bắc trong năm 1954-1955, được lệnh chuẩn bị chiến đấu và “miền Nam” (Trung Ương Cục Miền Nam) chuẩn bị nhận lại sự trở về của sư đoàn 338, lúc đó đang đóng quân ở Xuân Mai.
        Mặc dầu ngưi Hoa Kỳ trong Saigon vẫn chưa cảm thấy mức độ đáng lo ngại việc quân Việt Cộng trong mền Nam được Bắc Việt tiếp tế vũ khí quân dụng, tuy nhiên quyết định của chính quyền Hoa Kỷ đã được hoàn thành ở Washington và trong Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương. Washington cảm thấy tình hình gia tăng ở Việt Nam và bên Lào, và Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (MSC) ban hành Luật 5809, kêu gọi gia tăng ủng hộ chính quyền Ngô Đình Diệm, ngăn ngừa cộng sản thôn tinh miền Nam Việt Nam.
        Trong năm 1960, Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương đáp ứng sự gia tăng các hoạt động quân sự của quân đội Bắc Việt ở bên Lào, với kế hoạch đưa một đơn vị viễn chinh (thường là TQLC đi theo hạm đội) vào vùng trách nhiệm. Điều này cảnh cáo Hà Nội, Hoa Kỷ sẵn sàng bảo vệ quyền lợi trong khu vực Đông Nam Á.
         Trong khi Colby cố gắng giữ sự liên hệ ngành tình báo với cấp lãnh đạo VNCH, Gilbert Layton đến Saigon làm việc trong cơ quan CIA, chuẩn bị mở rộng các hoạt động chống cộng sản trong khu vực (Đông Dương), sau đó được Colby trao nhiệm vụ, ông ta kể lại như sau:
        Bill Colby gọi tôi “Gil, có chuyện gì đó ở ngoài xa, đi quan sát tình hình, và cho biết mình có thể làm được gì?
        Hơn một năm sau, chúng tôi kết hợp được một lực lượng khoảng 36.000 người điạ phương, đa số thuộc sắc dân thiểu số (nguời Thượng), và khoảng 36 toán A quân Mũ Xanh LLĐB Hoa Kỳ qua Việt Nam làm nhiệm vụ huấn luyện. Có bằng chứng, chúng tôi huấn luện vài điệp viên cho Russ Miller, nhưng tôi không để ý thời gian đó, trước khi căn cứ huấn luyện được xây dựng ở Long Thành. Đối tác người Việt Nam của tôi là Đại Tá Lê Quang Tung, nhưng tôi thường làm việc với Đại Úy Minh.
        Các cố vấn quân sự Hoa Kỳ đến Saigon đợc biết ông ta là Đại Tá Gilbert Layton từ ban Nghiên Cứu Hỗn Hợp (CSD), Layton kể tiếp:
        Khi quân đội Hoa Kỳ bắt đầu qua Việt Nam huấn luyện những người chúng tôi tuyển mộ (điệp viên, biệt kích), các quân nhân Hoa Kỳ phải có sự vụ lệnh đến đơn vị mới. Do đó, chúng tôi dựng lên “tấm bình phong” để có danh chính ngôn thuận. Tôi điều hành “ban Nghiên Cứu trên Bộ” (Biệt Kích), và Russ Miller điều hành “ban Nghiên Cứu Nhẩy Dù” (thả các toán biệt kích ra miền Bắc bằng phương tiện thả dù). Tucker Gougelmann ở Đà Nẵng (Biệt Hải), Ed Regan và Carl Jenkins cũng trong lãnh vực đó (điệp viên).”


        Đó là khởi điểm đối với người Hoa Kỳ. Sự hiện diện của Layton và các hoạt động trong Saigon (bề ngoài quân sự) che dấu các hoạt động bí mật của cơ quan CIA, chương trình đưa điệp viên ra hoạt động nơi miền Bắc của Russ Miller. Đối với “khách” ghé thăm Miller, Miller cùng nhân viên của ông ta làm việc trong văn phòng đằng sau (không quan trọng).
Military Odyssey 2021: Naval Advisory Detachment DaNang – MACV-SOG: A ...        Ed Regan, một người làm việc cho Russell Miller, “phóng” các toán biệt kích ra miền Bắc phát xuất từ Đà Nẵng trong thời gian đầu tiên, kể lại thời gian bắt đầu xây dựng cơ cấu tổ chức:
        Thành thật mà nói, không ai trong chúng tôi hy vọng hoạt động. Tôi nghe nói, cố vấn an ninh quốc gia Tổng Thống Dwight D. Eisenhower, Gordon Grey, từ Washington qua Việt Nam thanh tra lúc mới thành lập. Ông ta kết luận, không được hiệu qủa… theo như tôi hiểu.
        Trong thời gian đầu tiên, sự quan hệ giữa chúng tôi với nhân viên của Đại Tá Tung thường về vấn đề làm việc với đối tác VNCH như: chon cất, che dấu đồ tiếp liệu trường hợp Bắc Việt chiếm được miền Nam Việt Nam. Sau đó, nhu cầu cần biết chuyện gì xẩy ra nơi miền Bắc Việt Nam, và chúng tôi chuyển hướng qua chương trình đưa điệp viên đơn tuyến ra miền Bắc. Mục tiêu chương trình này đưa người ra miền Bắc quan sát ngắn hạn rồi người điệp viên trở về báo cáo chuyện đang xẩy ra ngoài Bắc. Tôi nhớ, khoảng hơn một chục điệp viên đơn tuyến xâm nhập mền Bắc rồi quay trở về an toàn (trước khi chương trình thả các toán biệt kích, nhẩy dù xuống miền Bắc bắt đầu).
        Tôi không thể kể cho các bạn tất cả mọi chuyện đối tác VNCH của chúng tôi làm, lý do mỗi người có nhiệm vụ, phần hành riêng, và chúng tôi không có cách nào để biết tất cả. Thí dụ, người em Tổng Thống Diệm ở Huế (ông Cẩn) có nhiệm vụ đưa các điệp viên của ông ta băng qua vùng phi quân sự xâm nhập tỉnh Quảng Bình, và chúng tôi không dính dáng đến việc làm của họ. Bác sĩ Tuyến và Đại Tá Lê Quang Tung cũng không làm việc chung với ông Cẩn.
        Sự liên hệ giữa chúng tôi và VNCH nhằm mục đích giúp họ lấy tin tức tình báo, điều này cũng gíup chúng tôi và cơ quan CIA, chuyện gì đang xẩy ra nơi miền Bắc Việt Nam. Chúng ta trả tiền (viện trợ) cho các hoạt động của họ, nhưng không kiểm soát họ chặt chẽ được.
        Khi Bắc Việt mở rộng các hoạt động trong miền Nam, cơ quan CIA cũng gia tăng hoạt động nơi miền Bắc, ngành phản gián của ông Diệm bắt giữ một gián điệp Bắc Việt, điều hành mạng lưới gián điệp trong miền Nam, bao gồm quân đội VNCH. Anh ta là một sĩ quan ngành Truyền Tin, điều hành Trung Tâm Truyền Tin bộ Tổng Tham Mưu (JGS). Hệ thống mật mã VNCH được người Pháp bàn giao lại, có lẽ Hà Nội cũng đã biết, nhưng việc bắt giữ người điệp viên cho thấy Bắc Việt đã xâm nhập vào sâu trong chính quyền, quân đội VNCH.
        Một điệp viên xâm nhập miền Bắc là Phạm Chuyên, một người quê quán nơi vùng đông bắc miền Bắc Việt Nam, đối với Saigon và Washington, người điệp viên có bí danh Ares.
        Điệp viên Ares? Chắc chắn, tôi biết anh ta, tôi đọc hồ sơ về anh ta. Anh ta có có vài bí danh, nhưng tên thật là Phạm Chuyên. Anh ta di cư vào miền nam năm 1959 và được chúng tôi tuyển mộ, sau đó đưa anh ta xâm nhập trở lại miền bắc trong tháng Hai năm 1961. Ares tiếp tục liên lạc với chúng tôi cho đến năm 1969, và tôi thực sự không biết anh ta làm việc cho chúng tôi hay cho họ (Hà Nội). Sau khi cộng sản chiếm được miền Nam Việt Nam năm 1975, tôi bị Bắc Việt tra khảo về Phạm Chuyên. Họ cứ hỏi đi hỏi lại, tôi nghĩ gì về Chuyên (Ares). Bạn cũng biết, chúng ta có hoàn toàn tin cậy anh ta không? ... Anh ta có thực sự làm việc cho họ hay không? Có lẽ họ cũng không hoàn toàn tin anh ta.
        Một viên chức tình báo Hoa Kỳ khác cũng có nhận xét tương tự về Phạm Chuyên
       Chuyện xẩy ra đâu năm 1959, đài phát thanh Hà Nội loan tin mà cơ quan CIA trong Saigon nghe được. Bản tin tức loan tin một chiếc tầu xâm nhập đã bị bắt trong tỉnh Hà Tĩnh, trọn bộ thủy thủ đoàn cùng với đồ tiếp liệu. Đài phát thanh Hà Nội nói rằng, chiếc tầu nằm trong tổ chức của Bác Sĩ Tuyến, rồi đọc danh sách những nhân vật trong tổ chức chịu trách nhiệm: Lê Quang Tung, Trần Khắc Kính, Ngô Thế Linh, và những người khác.
        Bản tin phát thanh là một cảnh cáo chúng ta. Hà Nội nói với chúng ta rằng, họ biết chúng ta là ai và đang làm chuyện gì. Điều rõ ràng, chúng ta đã mất một chiếc tầu, điều đó cho biết mục đích của bài phát thanh, ám chỉ chúng ta nên ngừng công việc đang làm đó, hoặc… Rồi chúng ta đã làm gì? Chúng ta chỉ đổi tên cơ quan thành Sở Khai Thác Điạ Hình.
        Lê Văn Bưởi diễn tả chính xác hơn về người điệp viên do cơ quan CIA dưới quyền Colby (trong Saigon) đưa ra ngoài Bắc trong tháng Hai năm 1961 (Ares - Phạm Chuyên).
        Trong mùa Xuân năm 1960, Ngô Đình Cẩn đến Vũng Tầu để họp quan trọng giữa các cấp chỉ huy ngành tình báo (các cơ quan tình báo). Sau khi trở về, ông ta thông báo cho chúng tôi biết đã gặp Phó Tổng Thống của các anh (người Hoa Kỳ - Lyndon B. Johnson) và cho biết, Hoa Kỳ đã nhất quyết cuối cùng sẽ tấn công miền Bắc. Đó cũng là sự cho phép chính các hoạt động hỗn hợp giữa cơ quan của chúng tôi và CIA. Sau cuộc họp đó, ông Cẩn quyết định tham gia bởi vì người Hoa Kỳ yểm trợ cho sự liên hệ giữa cơ quan CIA với Trần Kim Tuyến và Ngô Đình Nhu.
        Tôi gặp Đại Tá Lê Quang Tung và vạch ra những điều ông Cẩn suy nghĩ, chúng tôi muốn thực hiện các hoạt động chống miền Bắc riêng rẽ và hy vọng Đại Tá Tung sẽ yểm trợ. Ông Tung không đáp ứng sự đồng ý về chương trình của chúng tôi, nói rằng ông ta đã có một số toán biệt kích nơi miền Bắc, và quân biệt kích hoạt động rất tốt. Họ mất vài người nhưng vẫn được xem thành công. Rõ ràng, Đại Tá Tung không muốn yểm trợ chúng tôi. Chúng tôi muốn hoạt động trên đất Lào, nhưng cũng không thuyết phục được Đại Tá Tung.
        Có vài loại hoạt động đang thực hiện nơi miền Bắc Việt Nam. Có vài toán biệt kích gồm hạ sĩ quan tuyển mộ từ Liên Đoàn Quan Sát số 1, được huấn luyện đặc biệt và đến năm 1961 đã sẵn sàng lên đường (ra ngoài Bắc). Tôi biết điều này vì hai anh em Ngô Đình Cẩn và Nhu chia xẻ tin tức.
        Có vài đường dây (mạng lưới) tình báo (điệp viên) do người Pháp gài lại trước khi rút hết về nước trong năm 1955. Và khi người Pháp bàn giao cho người Việt (VNCH), họ trao một số cho mấy vị Linh Mục Công Giáo. Chúng tôi cẩn thận, vì (có thể) ng Nhu đã được người Pháp cho biết về các đường dây tình báo đó, và đến năm 1961, ông ta để cho CIA và Bác Sĩ Tuyến xử dụng.
        Chúng tôi liên lạc với các điệp viên đó từ căn cứ ở Đông Hà (Quảng Trị gần khu vực phi quân sự). Căn cứ này của Bác Sĩ Tuyến, nhưng ông Cẩn vẫn có thể gửi đi các công điện của ông ta. Theo sự hiểu biết của tôi, lúc đó cơ quan CIA tài trợ phần nào cho việc xử dụng căn cứ.
        Để góp phần, Ngô Đình Cẩn ra lệnh cho tôi viết bản thỉnh nguyện để trình với cố vấn CIA làm việc với ông ta. Tôi sẽ là người đầu tiên, ông Cẩn đưa ra ngoài Bắc để chứng minh, chúng tôi cũng có thể hoàn thành nhiệm vụ như nhóm của Ngô Đình Nhu. Bản thỉnh nguyện được chấp thuận và tôi được tham dự buổi họp với Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông (trùm Mật Vụ miền Trung), viên cố vấn CIA, và một người Việt Nam khác.
        Nhân viên CIA thuyết trình cho tôi biết, chiến tranh sẽ đến (xẩy ra) và nhiệm vụ của tôi phải giúp người khác chuẩn bị. Tôi sẽ phải nhận diện các mục tiêu cho phi cơ oanh kích, và CIA cho biết các trận oanh kích sẽ bắt đầu trong vòng hai năm. Điều đó có nghĩa chiến tranh sẽ bùng nổ trong năm 1963. Ông Cẩn đưa cho tôi tiền (giả) để xử dụng khi ần thiết. Tôi cũng biết tiền giả do cơ quan CIA in ra. Tôi được phép làm công tác phá hoại không cần phải xin phép Huế. Tôi được xem ảnh những người tôi bắt liên lạc, từ người đầu tiên gặp nơi phiá bắc vùng phi quân sự cho đến người cuối cùng nơi vùng hoạt động của tôi ở Quảng Yên. Tôi cũng được “trang bị” giấy tờ giả trường hợp đụng phải công an Bắc Việt.
        Tôi được cấp chỉ huy trực tiếp Phan Quang Đông, một người công giáo truởng ngành tình báo của ông Cẩn khuyến cáo phải cẩn thận, nhóm Trần Kim Tuyến đã cho hai điệp viên xâm nhập Quảng Yên. Một người miền Nam, tôi không biết anh ta là ai và cũng chưa nghe nói đến anh ta. Người kia là Phạm Chuyên (đìệp viên Ares). Như vậy, tôi là người kế tiếp và rất có thể có người khác nữa…
        Chuyên, cán bộ trung cấp trong đảng Cộng Sản, bỏ đảng di cư vào miền Nam năm 1959. Anh ta nói bất mãn nên di cư vào miền Nam. Tổ chức của Bác Sĩ Tuyến tuyển mộ anh ta rồi đưa anh ta trở lại hoạt động trong vùng Quảng Yên từ đầu năm 1961.
        Ông Cẩn tin rằng nhóm Bác Sĩ Tuyến đưa Phạm Chuyện trở lại miền Bắc được, tôi cũng có thể xâm nhập trở lại được. Ngoài ra, được biết Chuyên là cựu đảng viên Cộng Sản, biết đâu Bộ Nội Vụ (An Ninh, Tình Báo) miền Bắc đưa Chuyên vào miền Nam để xâm nhập vào tổ chức của Bác Sĩ Tuyến. Do đó, ông Cẩn (Phan Quang Đông) khuyên tôi nên tránh xa Phạm Chuyên.
        Đầu tháng Sáu năm 1961, Thiếu Tá Lê Văn Bưởi băng qua sông Bến Hải, xâm nhập vào miền Bắc Việt Nam. Cuối cùng ông ta đến cảng Hòn Gai nơi hướng đông bắc Việt Nam. Ông Bười kể tiếp:
        Có một mạng lưới nhỏ vẫn còn nằm vùng ở đó (Quảng Yên). Họ vẫn tếp tục liên lạc với miền Nam và được tái tiếp tế đều đặn máy móc truyền tin và nhiều thứ khác do tầu đánh cá Đài Loan đưa vào. Tôi biết họ (Đài Loan) lảng vảng trong khu vực, trong chuyến ra quan sát năm 1959.
        Mạng lưới tình báo của chúng tôi ở Hon Gai lên máy truyền tin liên lạc với miền Nam mỗi tuần một lần, và tôi đưa người liên lạc báo cáo của tôi để họ gửi vào miền Nam cho ông Cẩn (Huế). Chúng tôi gửi / nhận báo cáo lệnh lạc từ nhiều nơi khác nhau trong thành phố và vùng phụ cận.
        Rồi thì, được khoảng nửa năm, thâu thập tin tức gửi vào miền Nam, nhiệm vụ bắt đầu thay đổi:
        Bắc Việt có đơn vị bảo vệ vùng duyên hải, thường tuần tiễu trong khu vực, nhưng chưa có chuện gì xẩy ra, cho đến đầu năm 1962, khi một tầu xâm nhập từ trong miền Nam ra bị bắt gần Hòn Gai, cùng với đầy đủ thủy thủ đoàn. Chiếc tầu đó không ra tiếp tế cho tôi… do đó tôi bắt đầu nghi ngờ Chuyên.
        Một trong những người trong đường dây của tôi chỉ tay vào Phạm Chuyên rồi cho biết đường dây đã để ý anh ta vì Chuyên liên lạc với người của Bộ Nội Vụ. Câu hỏi duy nhất được nêu lên, Phạm Chuyên đã bị bắt chưa? Và bị ép buộc đóng vai trò “hai mang” (gián điệp đôi). Phạm Chuyên có vẻ được nhiều người biết đến, một công an điạ phương có lần cho rằng, sự hiên diện của Chuyên ở Hòn Gai là điều khác thường. Công an Hòn Gai biết Chuyên đã vào trong miền Nam rồi trở ra ngoài Bắc. Công an cho rằng, Phạm Chuyên là người có chức vụ cao trong đảng nên sự trở lại không bị bắt giữ. Sau đó Phạm Chuyên bỏ đi Uông Bí, rồi ra Hà Nội và tôi mất dấu vết của ông ta.
        “Rồi chuyện của Phạm Chuyên đi đến đâu?” Tôi hỏi ông Bưởi.
        “Tôi không biết” Anh ta làm việc cho Bác Sĩ Tuyến, tôi làm việc cho ông Cẩn.
        Ed Regan, một nhân viên CIA điều khiển đường dây, trả lời theo nhận xét của ông ta.
        Sau khi Kennedy trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ, (bầu cử trong tháng Mười Một năm 1959), áp lực gia tăng các hoạt động chống lại Hà Nội, thay đổi việc đưa điệp viên ra ngoài Bắc bằng đường lối quân sự, thả dù các toán biệt kích ra miền Bắc phá hoại. Chuyện thay đổi này phát xuất từ Washington chứ không phải chúng tôi (CIA) trong Saigon.
        Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm và người Hoa Kỳ đều đồng ý, Cộng Sản Việt Nam (Việt Cộng – VC) đã trang bị vũ khí cho quân du kích trong miền Nam khoảng 3.000 người trong thời điểm năm 1959. Đến cuối năm 1960, quân số du kích Việt Cộng tăng lên 7.000 người, làm cho ông Diệm và người Hoa Kỳ phải đề cao cảnh giác.
        Ông Diệm cùng với các cấp chỉ huy trong quân đội yêu cầu người Hoa Kỳ yểm trợ qua Chương Trình Quân Viện (MAP), và viêc địch quân gia tăng sức mạnh làm cho người Hoa Kỳ phải phản ứng. Nếu Chủ Tịch Hồ và Lê Duẫn dựa vào sự giúp đỡ trong khối Cộng Sản Quốc Tế (đặc biệt Đông Âu), Tổng Thống Diêm cũng dựa vào Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Phương, mở rộng sự hiện diện của người Hoa Kỳ trong miền Nam Việt Nam.
        Bắc Việt cũng hiểu mở rộng chiến tranh trong miền Nam, đòi hỏi hậu phương miền Bắc phải được bảo vệ an ninh. Để chống lại các hoạt động gián điệp của miền Nam, bộ Nội Vụ ban hành sắc lệnh số 20-VP/P-4 ngày 8 tháng Giêng năm 1960, để “niêm phong” bờ biển, đưòng biên giới miền Bắc Việt Nam. Sắc lệnh này bao hàm sự gia tăng lực lượng an ninh chìm của bộ Nội Vụ trong lãnh vực (chống gián điệp) này. Ngày 17 tháng Giêng, Bộ Chính Trị ban hành sắc lệnh186-CT/TW tập trung nỗ lực chống sự phá hoại của ngoại bang xúi dục “phản cách mạng”. Trong tháng Chín, phiên họp lần thứ Ba Quốc Hội của đảng Lao Động (Cộng Sản VN) đặc biệt bàn về chiến tranh tâm lý, gián điệp, và các hoạt động bán quân sự (Nha Kỹ Thuật, biệt kích Lôi Hổ) chống lại miền Bắc Việt Nam và kêu gọi võ trang cách mạng trong miền Nam. Để theo dõi quân biệt kích, gián điệp từ trong miền Nam ra, Bắc Việt thành lập Lực Lượng Cng An Vũ Trang Nhân Dân , theo dõi các khu vực tình nghi quân biệt kích có thể nhẩy dù xuống xâm nhập.
        Trong năm 1960, trụ ở CIA trong Saigon tiếp tục các hoạt động gián điệp mức độ thấp chống lại miền Bắc. Văn phòng chính trong Saigon và “căn cứ phóng điệp viên” ngoài Đà Nẵng. Đến cuối năm 1960, nhóm Đặc Biệt Hội Đồng An Ninh Quốc Gia chấp thuận dự thảo của cơ quan CIA. Trụ sở CIA trong Saigon sửa soạn chuyển hướng hoạt động qua các toán biệt kích (bán quân sự), không chỉ thuần túy “phóng” đi các điệp viên đơn tuyến.
        Đầu năm 1961, tổ chức của Bác Sĩ Tuyến tuyển mộ các toán biệt kích bán quân sự theo lời khuyến cáo của Trùm CIA ở Việt Nam Colby, gây nên sự khó chịu cho giới lãnh đạo miền Bắc, như Việt Cộng trong miền Nam Việt Nam. Colby giải thích:
        Chiến lược của chúng tôi đã đến giai đoạn xây dựng khung (nền tảng) cho các hoạt động (biệt kích), xây dựng tổ cức kháng chiến hay phá hoại, hay bất cứ điều gì cần phải làm, tâm lý chiến hay gì đó. Cứ đưa người vào nơi nào có thể liên lạc mà không phải thay đổi.
        Như tôi nhớ lại, vị trí các toán biệt kích được chọn lọc dựa trên nguyên tắc, nơi nào có người quen biết. Ý tôi muốn nói, một người (biệt kích quân) trong nhóm có gốc rễ từ một khu vực đặc biệt nào đó, và bạn (cấp chỉ huy) muốn anh ta trở về, bắt liên lạc trong khu vực. Một ý tởng khác, nếu bn sống trên vùng cao nguyên rừng núi, bạn sẽ được an toàn hơn phải sống trong một xã hội bị kềm chế, kiểm soát qúa chặt chẽ. Nhưng, ý tưởng chính yếu là xây dựng một căn cứ, rồi từ đó tìm cách xâm nhập xuống vùng đồng bằng.
        Một sự kiện khác, các toán biệt kích sắp nhẩy dù xuống miền Bắc sẽ đáp dọc theo đường rầy xe lửa vảo Hà Nội. Colby nói rằng “Đó cũng là một lý do, có thể quân biệt kích đợc lệnh phá đường rầy”
        Là trưởng trạm CIA ở Saigon, Colby gặp khó khăn làm việc với nhân viên của ông Diệm để xúc tiến các hoạt động bí mật, và trở nên mục tiêu cho nhóm chống đối người ngoại quốc vì ông Diệm không chịu chia xẻ quyền lực, cuối cùng ông ta (Colby) đứng về nhóm thúc đẩy việc lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
        Điệp viên Ares xâm nhập miền Bắc bằng tầu trong tháng Hai năm 1961 và an toàn đến khu vực đông bắc tỉnh Quảng Ninh. Ít lâu sau, anh ta báo cáo chuyến xâm nhập an toàn về Saigon. Trong khi quan niệm mới về thả dù các toán biệt kích ra miền Bắc đang được xúc tiến, một biến cố mới xẩy ra cách Việt Nam nửa vòng qủa đất. Đó là biến cố Vịnh Con Heo từ ngày 17 đến 19 tháng Tư năm 1961.
        Ảnh hưởng biến cố Vịnh Con Heo đến Việt Nam ngày 20 tháng Tư, khi Tổng Thống Kennedy triệu tập một ban nghiên cứu đặc biệt, dưới quyền Tướng Maxwell Taylor, tìm hiểu sự thất bại của (cuộc đổ bộ) Vịnh Con Heo, và đưa ra lời khuyến cáo cho các hoạt động khác của người Hoa Kỳ.
        Tổng Thống Kennedy cho rằng “Chủ Nghĩa Cộng Sản” chơi trò xâm lấn từ từ, và nói rõ để ý đến các hoạt động bán quân sự (biệt kích, gián điệp), không đồng ý tiếp tục tăng thêm quân đội chính quy. Tổng Thống Kennedy cho rằng, sau thảm họa đổ bộ Vịnh Con Heo ở Cuba, Nam Việt Nam và Lào là hai quốc gia kế tiếp sẽ bị rơi vào tay cộng sản. Giải php của vị Tổng Thống trẻ Hoa Kỳ Kennedy là tiến hành việc bàn giao các hoạt động bán quân sự của cơ quan CIA ở Việt Nam cho bộ Quốc Phòng, và chấp thuận các chương trình hoạt động quân sự ở Việt Nam do bộ Tổng Tham Mưu (JCS) soạn thảo.
        Ngày 13 tháng Sáu, nhóm Tướng Taylor trình bầy những điều biết được cho Tổng Thống Kennedy. Bản báo cáo cho rằng nên tập trung vấn đề phối hợp làm việc trong các hoạt động bán quân sự bí mật  ở Việt Nam, và Tổng Thống Kennedy chấp thuận đa số các điểm ủy ban khuyến cáo ngày 28 tháng Sáu.
        Trong khi Kennedy ra lệnh thẩm định, kết qủa trận đổ bộ Vịnh Con Heo, bốn viên Trung Sĩ sư đoàn 22 Bộ Binh quân lực VNCH chuẩn bị thi hành nhiệm vụ mở rộng của cơ quan CIA. Họ đã được sĩ quan an ninh tình báo sư đoàn 22 BB xác nhận, có khả năng làm việc cho sở Khai Thác Điạ Hình nơi miền Bắc Việt Nam. Cả bn người quê quán trong tỉnh Sơn La, tây bắc Hà Nội gần biên giới Lào, đã từng phục vụ trong quân đội Liên Hiệp Pháp.
        Họ được đưa về Saigon, sau khi đã tình nguyện cho một nhiệm vụ bí mật nơi miền Bắc Việt Nam. Khi nhân viên phòng 45 (sở Băc) thông báo họ sẽ được thả dù xuống tỉnh Sơn La, tinh thần của họ vẫn cao độ. Trong tháng Næm, bốn viên Trung Sĩ thuộc vào toán biệt kích Castor, trưởng toán là Hà Văn Chấp. Họ nhẩy dù xuống tỉnh Sơn La, nơi Công An Biên Phòng Bắc Việt đang đợi họ. Sau khi bị bắt, không bao lâu, nhân viên truyền tin bị ép buộc phải làm việc dưới sự kiểm soát của nhân viên Bộ Nội Vụ, Cục Phản Gián. Anh ta (nhân viên truyền tin) báo cáo toán biệt kch đáp xuống an toàn. Toán biệt kích Castor tiếp tục liên lạc cho đến tháng Bẩy năm 1963. Cơ quan CIA báo cáo mất liên lạc với toán Castor, lần cuối cùng liên lạc Castor đang ở bên Lào.
        Ngày 2 tháng Sáu, ba biệt kích trong toán Echo nhẩy dù xuống quận Lâm Trạch trong tỉnh duyên hải miền trung Quảng Bình. Họ bị bắt sống cùng với ba máy truyền tin, được cục Phản Gián bộ Nội Vụ xử dụng đánh lừa Phòng 45 (sở Bắc) VNCH. Nhân viên truyền tin bị ép buộc gửi những công điện sai lạc về Saigon, nhưng bí mật báo cho Phòng 45 biết bị ép buộc (toán biệt kích đã nằm trong tay địch quân). Cơ quan CIA liền chơi trò “truyền tin” với công an miền Bắc, cho đến tháng Tám năm 1962, khi CIA chấm dứt liên lạc với toán biệt kích Echo.
        Cũng trong tháng Sáu năm đó, thêm bốn Trung Sĩ VNCH gốc rễ trong khu vực tây bắc Hà Nội trong toán biệt kích Dido nhẩy dù xuống phía bắc tỉnh Lai Châu. Một toán viên Dido sau này kể lại định mệnh dành cho toán Dido với một người bạn tù biệt kích (toán khác) như sau, “Sau khi chúng tôi nhẩy dù xuống, ít lâu sau hết thực phẩm. Tôi bí mật về nhà (trước khi di cư vào miền Nam năm 1954) xin thực phẩm và bị bắt trước khi trở về với toán.”
        Lực lượng an ninh (công an biên phòng) ép buộc quân nhân biệt kích bị bắt, dẫn đường đến vị trí toán biệt kích Dido. Sau đó, họ ép buộc nhân viên truyền tin làm việc theo lệnh của họ. Anh ta cũng theo thủ tục đã được dặn dò trước khi lên đường ra ngoài Bắc, tìm cách bí mật thông báo cho Saigon biết toán biệt kích đã nằm trong tay địch quân. Nhưng hai biệt kích quân, Saigon gửi ra tăng cường cho toán Dido bị bắt và xử dụng chơi trò “hai mang” với CIA trong Saigon, cho đến khi cơ quan CIA chấm dứt liên lạc với toán biệt kích Dido… bị cơ quan CIA cho rằng chịu trách nhiệm về việc toán biệt kích Remus nhẩy dù ra ngoài Bắc sau này bị địch bắt giữ.
        Cũng trong tháng Sáu năm 1961, nhân viên CIA Samuel Halpern đến Saigon. Ông ta đã từng làm việc trong bộ chỉ huy cơ quan OSS (tiền thân của CIA trong trận Thế Chiến Thế Hai) trong thủ đô Washington nm 1945, theo dõi các hoạt động của Patti trong vùng Đông Dương. Samuel Halpern nhìn sơ qua các hoạt động của Colby (CIA ở Việt Nam).

        Trong tháng Sáu năm 1961, vị Trưởng Phòng CIA vùng Viễn Đông, Desmond FitzGerald đưa tôi sang Saigon với nhiệm vụ tạm thời. Tôi ở Việt Nam khoảng bốn tháng theo ý kiến của Tướng Edward Lansdale (đã lên cấp Tướng). Dò tìm các làn sóng truyền tin của Việt Cộng trong miền Nam, để cho quân Nhẩy Dù (có lẽ biệt kích) tấn công, bắt sống nhân viên truyền tin cùng máy móc radio của Việt Cộng. Tôi là một người Hoa Kỳ trong nhóm hỗn hợp Mỹ-Việt thi hành ý kiến của Lansdale. Trên lý thuyết có vẻ đơn giản, nhưng không bao giờ đạt hiệu qủa.
        Lansdale là phụ tá (phó) cho Thiếu Tướng Graves Erskine, Trưởng Phòng Các Hoạt Động Đặc Biệt, trong văn phòng Bộ Trưởng Quốc Phòng. Lansdale làm phụ tá từ năm 1957 đến năm 1963, Phòng đưới quyền Erskine là trung tâm các hoạt động yểm trợ của bộ Quốc Phòng cho cơ quan CIA. Lansdale đã lhành công ở Philippines giúp Tổng Thống Magsaysay khoảng giữa thập niên 1950s, đang tìm phép lạ như ở Philippines nhưng đã không xẩy ra ở Việt Nam, và ở Cuba (năm 1963 đổ bộ Vịnh Con Heo).
        Trong lúc phỏng vấn, tôi hỏi Halpern: “Trên phương diện tổng quát, các hoạt ộng (bí mật) đó được soạn thảo, chấp thuận do quyết định 5412 của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (NSC?)”. “Có áp lực nào thúc đẩy  CIA trạm trong Saigon?” Ông ta nhíu mày rồi trả lời “Có lẽ có áp lực khoảng thời gian đó, như chién dịch Mongoose (loài chồn chuyên ăn thịt rắn hổ mang), ám sát lãnh tụ Fridel Castro của Cuba cuối năm 1961 và 1962
        Sáng sớm ngày 1 tháng Bẩy, một phi cơ C-47 dưới quyền Nguyễn Cao Kỳ bay ra ngoài bắc thả dù một toán biệt kích. Chiếc phi cơ bị bắn rơi trong tỉnh Ninh Bình, khi bay tử biển vào đất liền. Một biệt kích, hai nhân viên phi hành, cùng phi công Nguyễn Thanh Vân còn sống và bị bắt. Họ bị bắt ngày 2 tháng Bẩy, đưa ra toàn kết án ở Hà Nội trong tháng Mười Một. Saigon cho rằng chuyện này liên quan tới vụ toán biệt kích Castor (đầu tiên) bị địch bắt, vẫn chưa nói đến điệp viên đơn tuyến Ares.
        Đến tháng Mười Hai năm đó, Quân Đội Nhân Dân Việt Nam phát hành báo cáo đầy đủ về phiên tòa xử vụ biệt kích bị bắn rơi ở Ninh Bình. Họ cho rằng các hoạt động biệt kích nơi miền Bắc theo lệnh của Quân Đội Hoa Kỳ. Lời khai của viên phi công chiếc C-47 lập lại, nói rằng nhận lệnh của Hoa Kỳ từ văn phòng “Toán Cố Vấn Hoa Kỳ” Cơ quan CIA không bình luận bản báo cáo phiên tòa trong tháng Mười Hai năm 1961 xử quân biệt kích, nhân viên phi hành chiếc phi cơ C-47.
        Phiên tòa nêu đích danh Liên Đoàn Quan Sát Số 1, Đại Úy Ngô Thế Linh trưởng phòng 45 (Sở Bắc) là người chỉ huy các toán biệt kích, hoạt động theo lệnh của người Hoa kỳ. Mặc dầu Colby chối cãi, cho rằng vụ chiếc C-47 bị bắn rơi là một tai nạn quốc tế, nhưng báo chí thế giới đã được biết, kể cả việc người Hoa Kỳ che dấu vụ phi cơ bị bắn rơi ở Ninh Bình.
        Cựu nhân viên CIA ở Việt Nam Regan nhớ lại vụ phi cơ C-47 bị bắn rơi và vụ chiếc tầu Nautilus I (N1) bị mất tích (bị Bắc Việt bắt giữ) sau 33 năm:
        Tôi nhớ vụ phi cơ C-47 bị bắn rơi, nhưng không nhớ bao nhiêu người trong toán biệt kích đi trên chuyến bay yểu mệnh đó. Chúng tôi theo dõi phi trình của chuyến bay và chắc chắn nó bị bắn rơi. Chuyện tương tự đối với chiếc tầu Nautilus, cùng với thủy thủ đoàn, quân biệt hải, bị bắt trong tháng Sáu năm 1962. Chúng tôi theo dõi được tầu tun duyên Bắc Việt đuổi bắt chiếc tầu xâm nhập Nautilus, đang cố gắng chạy về hướng nam. Chúng tôi rất tức tối như ngồi trên lửa không làm được gì để cứu chiếc tầu, vì không có quyền chạy lên hướng bắc vĩ tuyến 17. Cuối cùng chiếc tầu bị bắn chìm nơi phiá bắc vùng phi quân sự, thủy thủ đoàn bị bắt.
        Cơ quan CIA bị đổ lỗi cho nhiều “chuyện” nơi miền Bắc Việt Nam, nhưng không phải tất cả mọi chuyện “đổ bể” (xấu). Thí dụ, phi trường Đà Nẵng là nơi đáp phi cơ khẩn cấp cho cơ quan CIA, yểm trợ các hoạt động không yểm của cơ quan CIA trên đất Tầu (Trung Cộng). Tôi nhớ, Hà Nội báo cáo bắn rơi một phi cơ của chúng tôi (CIA), nhưng chúng tôi biết không phải của mình. Đó là một phi cơ của chúng ta (Hoa Kỳ) có vấn đề kỹ thuật trên không phận nước Tầu, trên đường bay về bị rơi ngoài miền Bắc… Vụ này không dính dáng gì đến cơ quan CIA trong Saigon.
        Khi các quân nhân sống sót trên chiếc phi cơ lâm nạn C-47 bị tra khảo trong tháng Bẩy, Thiếu Tá Lê Văn Bưởi rời Huế trong nhiệm vụ ở Quảng Ninh. Trong tháng Chín, đơn vị Hải Thuyền dưới quyền Đại Úy Ngô Thế Linh đưa một điệp viên khác xâm nhập vùng biển tỉnh Nghệ An, cũng bị bắt ít lâu sau khi xâm nhập. Ed Regan nhìn lại những chuyện xẩy ra ở Huế:
        Trong khi Russ Miller (CIA) gặp Ngô Đình Cẩn lần đầu tiên trong năm 1960, một người trong chúng tôi đã có thể làm việc chút đỉnh với ông ta.
        Tôi tin rằng, chúng ta đã “phóng” (đưa) người điệp viên nào đó của ông Cẩn trong mùa hè 1961, nhưng việc làm của chúng tôi giới hạn trong việc cung cấp ngân khoản cho họ để đổi lấy tin tức người điệp viên gửi về. Sau đó tôi không biết chuyện gì xẩy ra cho người điệp viên. Có thêm một điệp viên khác xâm nhập miền Bắc cũng bị an ninh Bắc Việt bắt giữ nơi trạm xe lửa.
        Đến cuối năm, ít nhất ba toán biệt kích đã nhẩy dù xuống miền Bắc, trong đó hai toán không may, xuống đúng ổ và bị bắt sống. Một phi cơ C-47 cùng toán biệt kích … chết, bị bắt. Và ngườiđiệp viên “hai mang” Ares đang làm việc với Hà Nội chuẩn bị “đón tiếp” nạn nhân kế tiếp, thủy thủ đoàn chiếc tầu mang tên Nautilus I.   
   
Theo tài liệu:
        Sedgwick D. Tourison, Jr., “Secret Army Secret War” 1995, Naval Institute Special Warfare  
                     Series. ISBN: 1-55750-818-6